Giáo dục theo tâm lý lứa tuổi
Thứ ba - 24/07/2012 11:13
· Tâm lý là gì?
Tâm Lý là những sự kiện vô chất thể nơi con người (buồn, vui, giận, ghét, yêu, đam mê, cảm xúc…). Ta không thể nhìn thấy, hay mô tả các sự kiện tâm lý như mô tả một sự vật cụ thể; không thể định hình hay định vị. Nhưng phải nhìn nhận rằng tâm lý là sự kiện có thật được nhận thấy qua thái độ, ngôn ngữ, phản ứng và hành vi (nhìn một người khóc, tôi biết họ đang buồn hoặc quá vui; nhìn đứa trẻ đang gào thét, tôi biết em đang bị uất ức điều gì đó).
· Tâm Lý Học là gì?
Tâm Lý Học là khoa khảo sát về những sự kiện tâm lý qua nỗ lực quan sát các sự kiện khả giác bên ngoài của con người để nhìn ra và giải thích cái nguyên nhân bên trong của sự kiện đó. Sự kiện tâm lý và sự kiện thể lý là nguyên nhân và là hậu quả lẫn cho nhau. Khó có thể phân định cái nào sinh ra cái nào. Nghiên cứu tâm lý cần căn cứ vào cả những thể hiện của thể lý. Trong phạm vi bài này, người Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên không có tham vọng đi sâu vào việc nghiên cứu tâm lý, nhưng chỉ vận dụng những thành quả của khoa tâm lý học để áp dụng vào việc dẫn dắt các em thiếu nhi được giao cho chúng ta trong lớp Giáo Lý hoặc trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể.
· Tâm Lý Học ứng dụng vào những lãnh vực nào?
Nói đến Khoa Tâm lý học, người ta thường nghĩ đến những công trình khảo cứu có tính bác học. Đành vậy, nhưng trên thực tế, tâm lý học được sử dụng hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống cá nhân, cộng đồng và trong các mối tương giao, các sinh hoạt kinh tế, xã hội, chính trị, gia đình, học đường, giáo dục, lãnh đạo, quản lý, thậm chí cả trong chiến tranh.
Như vậy, có thể nói Tâm lý học là khoa nghiên cứu về ý thức con người. Nhà kinh doanh tìm hiểu tâm lý khách hàng; Nhà quân sự tìm hiểu tâm lý đối phương; nhà lãnh đạo cộng đồng tìm hiểu tâm lý quần chúng; nhà giáo dục tìm hiểu tâ m lý học sinh; cha mẹ tìm hiểu tâm lý con cái. Tất cả để đối phó hoặc phục vụ đối tượng của mình cách hữu hiệu nhất.
· Sao Huynh Trưởng TNTT phải hiểu tâm lý đoàn sinh?
Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng! Huynh Trưởng có nhiệm vụ giúp các đoàn sinh của mình để phát triển con người toàn diện, về phương diện siêu nhiên và tự nhiên. Hiểu theo nghĩa này, Huynh Trưởng là nhà giáo dục. Nhà giáo dục cần phải tìm hiểu đối tượng giáo dục, các đoàn sinh của mình, nhằm tìm ra cách giáo dục phù hợp với tầm hiểu biết, khả năng tiếp thu; khai thác sự yêu thích, sự quan tâm của các em để đạt đến hiệu quả giáo dục cao nhất là giúp các em dần dần hoàn thiện hóa tiềm năng đang phát triển nơi các em trong tiến trình dẫn đến sự trưởng thành. Bởi vì trẻ em hoặc thiếu niên là lứa tuổi đang phát triển để thành người lớn. Tâm lý (tình cảm, suy nghĩ, trí nhớ, sự liên tưởng, óc tưởng tượng) cũng như thể lý của trẻ (sức khỏe, cơ năng, sự vận động, sinh dục…) ảnh hưởng lẫn nhau, và đều đang trong quá trình phát triển để đạt tới sự tròn đầy của người trưởng thành. Đó là lý do Huynh Trưởng phải tìm hiểu tâm lý trẻ và sự biến đổi tâm lý theo lứa tuổi. Giới hạn của vấn đề là tâm lý các lứa tuổi đang phát triển – chưa trưởng thành.
Ở Cấp I, những đặc tính được trình bày cách tổng quát nhằm giúp các Giáo Lý Viên làm quen với việc tìm hiểu tâm lý thiếu nhi.
Nay, ở cấp II, các Trưởng đi sâu thêm vào những đặc tính tâm lý của từng lứa tuổi và tìm hiểu những giải pháp giáo dục chung phù hợp cho từng lứa tuổi, nhằm dẫn dắt các em phát triển tích cực và đúng hướng.
Bước sang cấp III, chúng ta căn cứ vào những kiến thức căn bản này, các Trưởng sẽ quan sát thái độ, hành vi của các em, đọc ra nguyên nhân của hiện tượng (các sự kiện tâm lý đang diễn ra trong tâm hồn các em). Để rồi quyết định đưa ra một giải pháp thích hợp cho từng trường hợp của nhóm, đoàn hoặc của từng em.
TÂM LÝ TUỔI ẤU
Tuổi Ấu thường được xác định từ 6-9 tuổi hoặc 7-10 tuổi. Có những đặc tính sau đây:
1. Khả năng tập trung.
Không chú ý được lâu.
à Không nên ép các em chú ý lâu. Giờ Chầu, Lễ, buổi học không nên kéo dài quá 30 phút. Ngay trong thời gian này cũng cần có sự thay đổi bầu không khí.
2. Trí nhớ chưa có sự chọn lựa.
Ghi nhận nhanh, nhớ nhanh và nhớ lâu những gì các em thích (chuyện kể, phim ảnh…)
à Muốn các em thích học và nhớ lâu, bài học cần được minh họa bằng hình ảnh, cử điệu; lời nói vui, gây sự chú ý.
3. Sự hiểu biết và trí nhớ lệ thuộc vào nét nổi bật của sự vật, của hình ảnh, sự rực rỡ của màu sắc. Để rồi mô tả và nói đúng như các em thấy. Không màng đến ý nghĩa bên trong, hoặc mục đích xa gần.
à Muốn các em hiểu và nhớ vấn đề gì, vấn đề đó cần được minh họa bằng hình ảnh đẹp và có màu sắc. Những hình ảnh đó sẽ tạo ra một ký ức hay một ấn tượng, làm nền móng cho sự hiểu biết về ý nghĩa và mục đích sau này. Còn gọi là phương pháp trực quan (trực: thẳng; quan: nhìn thấy, nhận thấy, nghe thấy…)
4. Bắt đầu hiểu biết, phân biệt được giá trị của con số và thứ bậc.
Biết nhiều điểm là tốt (bài làm được 10 điểm là giỏi hơn được 6 điểm…)
Biết số nhỏ trong thứ bậc là tốt hơn số lớn (đứng hạng 3 là giỏi hơn đứng hạng 9…)
à Hình thức thi đua và cho điểm có tác dụng đối với lứa tuổi này.
5. Tuổi bắt đầu đi học, cũng có nghĩa là các em bắt đầu bung ra khỏi cái nôi gia đình
Trước kia cha mẹ và anh chị là mẫu mực, là chỗ dựa, là “cuốn tự điển” cho những thắc mắc của các em. Bây giờ thì khác rồi! Thầy cô, Giáo Lý Viên, Huynh Trưởng, bạn bè (kể cả xã hội) là người cung cấp kiến thức mới cho các em. Đôi khi những kiến thức này chẳng những mới mà còn mâu thuẫn với kiến thức các em đã hấp thụ trong gia đình trước đây. Lúc này, các em rất tin cậy và vâng lời thầy cô, Huynh Trưởng, nhất là trong những vấn đề mà gia đình và bên ngoài mâu thuẫn nhau.
à Vì các em quá tin nơi thầy cô và Huynh Trưởng, nên Huynh Trưởng phải: Cung cấp kiến thức chính xác, dạy các em những việc làm và cách sống đạo đúng;
- Huynh Trưởng, luôn phải là gương mẫu cho các em.
- Sự sai lầm trong việc giáo dục các em ở tuổi này sẽ ghi dấu ấn sâu đậm, khó sửa.
- Huynh Trưởng cần ý thức tầm quan trọng của vai trò mình đang đảm trách để luôn cẩn trọng trong việc giảng dạy, lời ăn tiếng nói đối với các em.
6. Con người bẩm sinh có xã hội tính.
Con người có khuynh hướng tìm đến người khác và sống cộng đoàn với nhau. Khuynh hướng xã hội của lứa tuổi này bắt đầu lộ diện, phát triển và được thể hiện qua:
- Cách có tổ chức, có hướng đi, có mục đích như lớp học, đoàn thể; hoặc cách tự nhiên không tổ chức, không mục đích rõ rệt như nhóm bạn.
à Cần chuẩn bị cho các em vươn tới những mối quan hệ mới, cụ thể là: Gia đình tin tưởng, cộng tác và hỗ trợ các tổ chức như nhà trường, lớp giáo lý, đoàn thể. Các em sẽ phấn khởi khi thấy gia đình và đoàn thể hợp tác với nhau;
- Ủng hộ, khuyến khích, kiểm soát khéo léo và hướng dẫn các em trong quan hệ bạn bè, nhóm.
- Ngăn ngừa hiện tượng băng đảng. Giá trị đạo đức và giá trị giáo dục của nhóm bạn và băng đảng hoàn toàn khác xa nhau, nhưng ranh giới giữa nhóm bạn và băng đảng lại rất gần nhau. Sự sa đọa của nhóm bạn dễ dàng biến nhóm bạn thành băng đảng!
- Các đoàn thể cần áp dụng phương pháp hàng đội cho các em ngay từ tuổi này. Phương pháp Hàng Đội là cách đáp ứng thích hợp nhất cho khuynh hướng xã hội đang phát triển nơi các em. Điều đáng tiếc là sự quan tâm của phụ huynh đến nhóm bạn của con cái còn có vẻ xa lạ trong xã hội Việt Nam. Có nhiều phụ huynh rất yên tâm và hãnh diện rằng “con tôi đi đến nơi, về đến nhà không bầu bạn với ai…”!! Một đứa trẻ và kể cả người lớn mà chỉ “đi đến nơi về đến nhà, chẳng bầu bạn với ai”, đó là người bất thường.!!! Không đáng hoan nghênh.
7. Khái niệm không gian và thời gian chưa rõ ràng.
Bởi còn thiếu kinh nghiệm: Chẳng hạn chưa hình dung được khoảng thời gian một nghìn năm trước công nguyên hay một nửa vòng trái đất là thế nào,
à Thường bắt đầu câu chuyện cổ tích bằng từ “ngày xưa hoặc ngày xửa ngày xưa” để nói lên rằng đã lâu lắm rồi. Không cần bắt các em phải nhớ chính xác những niên đại xa xôi, hoặc những cự ly quá lớn, làm che khuất những điều đơn giản mà các em cần phải nhớ.
8. Trí tưởng tượng mạnh.
Thích chuyện thần tiên, biến hóa mà không quan tâm đến tính hợp lý hay khoa học của câu chuyện.
à Việc Chúa tạo dựng, Chúa Ba Ngôi, Phép Lạ của Chúa được các em chấp nhận dễ dàng. Các Trưởng, Giáo Lý Viên không nên bận tâm cắt nghĩa sâu xa vấn đề này cho các em. Hơn nữa càng cắt nghĩa, chính các bạn càng đi vào ngõ bí, và làm cho các em bối rối, không hiểu Trưởng đang nói gì.
9. Ngôn ngữ còn nghèo nàn.
Chịu ảnh hưởng nặng ngôn ngữ gia đình, địa phương. Chưa hiểu từ trừu tượng, bác học như “ý thức, khách quan, tư duy...”
à Để diễn đạt một bài học cho các em tuổi này,
- Trưởng nên tìm và dùng những từ đơn giản phù hợp với lứa tuổi của các em, phù hợp với ngôn ngữ địa phương của các em.
- Dùng kinh nghiệm của mình để khi nghe các em nói thiếu mà ta vẫn hiểu đầy đủ; các em nói sai, nhưng ta biết các em muốn gì, nhằm tránh sự hiểu lầm, sự trừ điểm, hoặc hình phạt oan cho các em, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Trưởng và đến quá trình giáo dục toàn diện.
10. Muốn được người lớn quan tâm, chăm sóc, muốn “có một chỗ đứng” trong lòng người lớn, nhất là cha mẹ, thầy cô, Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên.
à Yếu tố quan trọng làm cho các em vâng lời và có ảnh hưởng tốt đến quá trình giáo dục toàn diện là:
- Nhớ tên, nhớ việc làm tốt em đã làm trước đây, nhớ ưu điểm của em; Biết cha mẹ, nơi ở của các em; Cư xử thân thiện, cởi mở, dịu dàng với các em.
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các Trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất.
TÂM LÝ TUỔI THIẾU
Tuổi Thiếu thường được xác định từ 10 đến 12 tuổi. Có những đặc tính sau đây:
1. Khả năng tập trung:
- Vẫn chưa chú ý được lâu. Nhưng đã có ý thức về sự chú ý. Nghĩa là khi chú ý vào vấn đề nào đó, các em có nhắm đến một mục đích. (VD: cố gắng tập trung nghe giảng bài vì sắp đến kỳ thi)
à Thời gian học tập, Kinh Lễ không nên kéo dài quá 45 phút, và cần thay đổi bầu không khí trong thời gian này;
- Thi đua có thưởng, tuyên dương là cách giúp các em luyện tập sự chú ý.
- Cần luyện tập sự chú ý nhằm nâng cao khả năng tập trung tư tưởng, giúp các em dần dần có khả năng chú ý lâu và bền bỉ, chuẩn bị cho các em sau này tiếp thu những vấn đề lớn hơn. Luyện tập chú ý không có nghĩa là gò các em làm việc quá sức, nhưng là tạo cơ hội vừa sức để giúp các em rèn luyện khả năng chú ý theo quy luật phát triển của lứa tuổi.
2. Sự phát triển khả năng nhớ:
- Biết quan sát và nhận xét sự việc, hình ảnh theo cách nghĩ của mình.
- Có thể nhìn ra các mối liên quan “nguyên nhân – hậu quả” (làm toán đố, toán hình học chẳng hạn). Có thể căn cứ vào những ký ức cũ, tổng hợp chúng để đưa ra câu trả lời cho một câu hỏi mới.
à Bài học có thể dài hơn, có tính suy luận hơn.
- Củng cố bài học bằng những câu hỏi nối kết và suy luận đơn giản (VD: Từ việc các em hiểu Chúa Giêsu đến nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài làm gì cho ta; Ngài muốn ta làm gì, các em không thể suy ra nhưng dễ chấp nhận rằng Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa nhờ biết nối kết tư tưởng và suy luận dựa trên sự nối kết trí nhớ;)
3. Đã biết thắc mắc.
- Những thắc mắc của các em thường là “thắc mắc tại sao” khi các em:
. Tự đối chiếu điều mới học với điều đã học mà các em còn nhớ và thấy có sự khác nhau;
. Thấy điều mới học khác với thực tế các em đã trải nghiệm.
à Điều ta muốn các em chấp nhận phải có tính hợp lý, và phải tiên liệu những thắc mắc của các em để chuẩn bị câu trả lời;
- Khi các em “không có chút thắc mắc nào” về lời nói hoặc bài học, đừng vội cho rằng các em đã hiểu bài. Nhìn vào ánh mắt, vẻ mặt của các em mới có thể biết các em có hiểu và chấp nhận điều ta truyền đạt hay không, để rồi khéo léo đặt câu hỏi “trúng chỗ ngứa” của các em.
- Không nên dập tắt thắc mắc của các em, mặc dù đôi khi những câu hỏi có vẻ là thừa, ngớ ngẩn. Xuyên qua câu hỏi không hoàn chỉnh đó, Trưởng phải đọc ra ý các em thắc mắc điều gì, hoặc giúp các em xác định, để rồi đưa ra câu trả lời soi sáng cho các em.
4. Khuynh hướng độc lập, tư hữu phát triển.
Mặc dù em chưa có thể tự mình quyết định được điều gì nhưng khuynh hướng độc lập, tự quyết đang nổi dậy. (VD: muốn đi học, đi lễ một mình, không muốn cha mẹ hoặc anh chị đưa đi tới nơi đưa về tới nhà như xưa nữa). Mặc dù các em chưa có gì “làm của riêng”, nhưng tự trong thâm tâm các em vẫn muốn có cái gì đó riêng cho mình: một góc học tập trong gia đình, xe đạp riêng, tiền túi riêng…Và đây là những ước muốn chính đáng.
à Hãy tôn trọng và tạo điều kiện cho khuynh hướng này phát triển đúng hướng nhằm giúp các em biết suy nghĩ, phát biểu, làm việc và sống độc lập (không phải biệt lập) trong khi vẫn khuyến khích tinh thần cộng đồng nơi các em.
- Nhưng vẫn tạo điều kiện để các em tín nhiệm vào người lớn nói chung bằng cách người lớn phải tỏ ra hiệu quả và có sức thuyết phục trong các quết định và việc làm.
- Gia đình cung cấp cho các em những yêu cầu chính đáng này kèm theo sự giáo dục về cách sử dụng những thứ đó, sẽ là sự đóng góp quý giá vào tiến trình trưởng thành của các em.
- Đoàn thể có thể góp phần vào tiến trình giáo dục này bằng cách giúp các em ý thức giữ gìn tài sản đội đồng thời tôn trọng cái riêng của các bạn khác trong đội, trong đoàn như của chính mình.
5. Khuynh hướng Xã hội phát triển.
- Có nhu cầu tự nhiên kết bạn, lập nhóm.
- Sinh hoạt trong nhóm bạn, giúp các em hiểu biết người khác, nhận ra chính mình và nhất là có tinh thần vị tha, tương thân tương ái .v.v… Giảm bớt tính ích kỷ, hẹp hòi.
- Có nhiều nhóm bạn đã kéo dài sự liên kết đến suốt đời và trong thời gian đó họ đã học tập lẫn nhau, giúp nhau thăng tiến và cùng nhau làm được nhiều điều hữu ích. Những nhóm Thiếu Nhi Thánh Thể, Giáo Lý Viên, Hướng Đạo hiện nay là những bằng chứng xác thực nhất.
à Trong đoàn thể, phương pháp Hàng Đội là cách tốt nhất nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội này
- Trong gia đình phụ huynh cần khuyến khích các con em có bạn. Nhưng cần hướng dẫn, theo dõi xem con mình chơi với những ai, thuộc thành phần nào. Đồng thời phải biết hoạt động của nhóm bạn mà con em mình tham gia.
- Phụ huynh nên cách nào đó tham gia vào các tổ chức của con em để hướng dẫn hoặc huấn luyện. Cách này hiện nay còn xa lạ đối với xã hội Việt Nam, nhưng đã phổ biến ở các nước phương Tây, Hoa Kỳ chẳng hạn, đã chứng tỏ được hiệu quả tích cực.
- Nhờ hoạt động cộng đồng, sinh hoạt nhóm, các em sẽ vừa có thể tự khẳng định và từng bước điều chỉnh mình, vừa góp phần xây dựng cộng đồng.
6. Dễ chịu ảnh hưởng xã hội qua nghe, nhìn.
Phim ảnh, sách báo có ảnh hưởng mạnh mẽ vì sự hấp dẫn của nó. Các nhân vật trong phim, sách truyện, giáo viên, Huynh trưởng, cầu thủ, võ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ… dễ trở thành thần tượng của các em: các em có thể kể lại một cuốn phim hay một câu chuyện cách say sưa và khá chi tiết. Các em cũng có thể kể lại một đám đánh nhau hay cãi nhau cách đầy đủ cho người lớn.
à Bài học phải hấp dẫn, cách trình bày phải lôi cuốn.
- Không nên dập tắt sự say sưa kể chuyện của các em. Trưởng (người lớn) cần lợi dụng đặc tính này, lắng nghe các em và đặt ra cho các em vài câu hỏi có mục đích giúp các em đánh giá nhân vật, thái độ và hành động của nhân vật, giúp các em nhận ra cái đúng để bắt chước, cái sai để loại bỏ (VD: sự trả thù trong phim; những lời chửi bới thô tục trong đám cãi nhau…).
- Huynh Trưởng không mong thành thần tượng “hão” nhưng lợi dụng đặc tính này để dạy dỗ các em.
7. Thích được khen.
- Thật ra tuổi nào cũng thích được khen, kể cả người lớn! Miễn là khen đúng.
- Lời khen công khai, có tác dụng bao nhiêu, thì lời chê công khai tác hại bấy nhiêu.
à Nên nhìn các em bằng cái nhìn tích cực, cố gắng tìm ra những điểm tốt, đúng, hay để khuyến khích và khen ngợi.
- Nhìn yếu điểm của các em bằng cái nhìn bao dung và cố gắng tìm cách biện hộ, giải thích trước khi đi đến giải pháp kỷ luật, và hết sức hạn chế hình thức kỷ luật công khai. Thông thường nên sửa dạy các em cách kín đáo.
8. Muốn được người lớn tín nhiệm và giao việc.
Các em:
- Hãnh diện được người lớn trao trách nhiệm;
- Hãnh diện khi nhận ra mình đã đóng góp điều gì đó vào thành quả chung của tập thể.
- Khi được giao công việc, các em sẽ cố gắng hoàn thành có thể hơn cả sự mong đợi của người lớn.
à Nghi thức sai đi, Trao khăn, Tuyên hứa, Trao quyền chỉ huy là cách tuyệt vời để các em có cơ hội nhận ra khả năng của mình, để hoàn thành nhiệm vụ và rèn luyện tinh thần trách nhiệm.
- Những thành quả đầu đời này là sự khuyến khích, là nền tảng, và là bàn đạp rất quan trọng cho sự thành công tương lai của các em.
9. Hiếu động:
- Thích hoạt động ganh đua.
- Thích trò chơi mạnh. Nam nữ có khác nhau về thể lực, nên cách thể hiện cái “mạnh” có khác nhau (VD: nam thích tập trận giả, kéo dây, đá bóng; nữ thì nhảy dây, đuổi bắt…).
- Cũng do sự phát triển mạnh về thể chất, sức sống tràn đầy, các em không chịu ngồi yên.
- Kiến thức và kinh nghiệm của các em không do sự suy tư hay sự nhồi nhét lý thuyết, nhưng được các em tích lũy ngang qua hành động (VD: dạy kỹ thuật hoặc chiến thuật bóng đá sau một trận đấu thì hiệu quả hơn trình bày lý thuyết trước khi ra sân)
10. Muốn lập thành tích.
Thành tích là thành tựu được ghi nhận, được công khai hóa, và được mọi người (hoặc nhiều người) công nhận.
à Nên tuyên dương trước tập thể, ghi vào hồ sơ hoặc nhật ký đoàn những thành công hoặc sự đóng góp của các em cho việc chung nhằm tưởng thưởng việc làm tốt ngày hôm nay đồng thời khuyến khích sự cố gắng hơn nữa của ngày mai.
- Tuy nhiên không thể không đề phòng sự nổi dậy của lòng kiêu ngạo. Đạt được cả hai mục đích này là nghệ thuật của Trưởng!
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các Trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất.
TÂM LÝ TUỔI NGHĨA
Tuổi Nghĩa thường được xác định từ 13 đến 15 hoặc 16 tuổi.
Có những đặc tính sau đây.
1. Khả năng tập trung:
Tuổi này khả năng tập trung đã cao hơn.
- Các em có thể tập trung sự chú ý vào một vấn đề hay một đối tượng phức tạp, đa dạng. (VD: để giải một bài toán, không chỉ chú ý tới một định đề hay định lý đơn thuần, mà có thể phải chú ý tới hai hay nhiều định lý).
- Có thể tiếp thu một bài học ở dạng chứng minh đơn giản.
- Có khả năng chọn lựa sự chú ý, không hoàn toàn lệ thuộc vào cái thích hoặc tác động tự nhiên bên ngoài như màu sắc, hoặc hình ảnh nổi bật như tuổi ấu nữa.
- Nhưng vì còn thiếu kinh nghiệm, sự chọn lựa chưa chín chắn, cần có người có kinh nghiệm hướng dẫn sự chọn lựa điểm tập trung à Trong bài dạy, cần:
- Nhắc nhở cho các em biết điểm nào quan trọng và cần thiết cho mục tiêu các em đang nhắm tới.
- Đặt ra những câu hỏi giúp các em chọn lựa điểm tập trung (điều nào quan trọng) để qua câu trả lời, Trưởng có thể giúp các em điều chỉnh điểm tập trung.
2. Do bộ não đã phát triển khá hoàn chỉnh, trí nhớ cũng phát triển theo.
- Có thể ghi nhớ những bài học dài, nhiều chi tiết.
- Biết chọn lựa cái để nhớ. Biết tự tìm cách để nhớ.
- Biết phối hợp ký ức để nhậ n ra vấn đề mới nhờ hoài niệm, liên tưởng và kinh nghiệm. Đây là sự khởi đầu hình thành sáng kiến và khả năng phát minh do ảnh hưởng của khuynh hướng suy nghĩ và phán đoán độc lập.
à Hãy để các em:
- Tự chọn điều gì cần nhớ, sau đó mới giúp các em điều chỉnh hoặc thay đổi hoặc loại bỏ những điều không cần thiết hoặc sai lầm bằng sự cố vấn có tính thuyết phục (chứ không bằng mệnh lệnh).
- Giúp các em tổng hợp kiến thức nhằm đưa ra một nhận định hoặc quyết tâm đúng. (VD: Bài Giáo lý cho tuổi này gồm các bước:
. Cung cấp văn bản;
. Tiên liệu và cắt nghĩa những điểm cần thiết;
. Để các em nhận định, tìm ra ý chính với sự điều chỉnh của Trưởng
. Yêu cầu các em đưa ra quyết tâm hoặc lời đáp trả tuỳ theo bài.)
3. Tuổi Nghĩa là tuổi nhiều thắc mắc, hay đặt lại vấn đề:
- Thắc mắc của tuổi Nghĩa không đơn thuần là “thắc mắc tại sao”.
- Biết đối chiếu bài cũ với bài mới, sự kiện nơi này với nơi khác, cách giải thích lúc này với lúc khác, người này với người khác và đặt thành câu hỏi với ý muốn đòi hỏi sự nhất quán, mặc dù cách đặt câu hỏi có thể không mạch lạc vì còn hạn chế về vốn từ ngữ. Khi những thắc mắc không được giải đáp thoả đáng, phát sinh sự phản kháng, phá phách.
à Trưởng cần:
- Thông cảm khi nghe lời nói hoặc nhìn hành động không mấy lọt tai hoặc vừa mắt của các em, để đọc ra nội dung hoàn chỉnh trong cc câu hỏi bất toàn về ngôn ngữ cũng như hành động vụng về của các em để đưa ra lời giải đáp hoặc hành động đúng vào “chỗ ngứa” của các em.
- Thông cảm không có nghĩa là đồng tình, nhưng đón nhận các em với những bất toàn của tuổi này để từng bước dẫn các em đến chỗ hoàn chỉnh vì các em còn đang trong tiến trình “thành người”.
- Sự giận hờn hoặc nổi nóng với các em là dấu chỉ của sự chịu thua, và thất bại là điều chắc chắn. Về vấn đề này Trưởng cần là người bạn đồng hành với các em để các em có thể tỏ bày tâm sự. Khi các em dám tâm sự với Trưởng, Trưởng đã nắm được một nửa của sự thành công. Còn nửa kia tuỳ thuộc vào khả năng “bắt mạch và kê toa” của Trưởng mà thôi.
4. Khuynh hướng độc lập, tư hữu phát triển.
- Muốn quyết định một mình, làm điều mình muốn. Không muốn lệ thuộc vào cha mẹ hay người lớn. Không muốn bị kiểm soát chi ly như “thuở nhỏ”.
- Các em muốn được tham vấn hơn là chỉ thị; muốn được nhắc nhở hơn là khiển trách.
- Muốn có của riêng: xe riêng để trang trí, sử dụng theo ý mình; tiền riêng để chi tiêu riêng chứ không muốn mỗi việc mỗi xin.
- Muốn tự mình đưa ra kế hoạch và kỷ luật làm việc, mặc dù còn non kém.
à Để hướng dẫn khuynh hướng này,
- Những gì các em làm được hãy để cho các em làm, người lớn theo dõi để hướng dẫn và rút kinh nghiệm sau mỗi công việc.
- Không bao giờ khiển trách lỗi của một em ra trước toàn đội hay toàn Đoàn. Khen thì khen chung; nhưng sửa phạt thì làm riêng.
Cần loại bỏ ý tưởng phản giáo dục là “phạt để làm gương”.
- Ngoài chương trình chung, Trưởng cần hiểu biết và làm việc cá nhân với từng em.
5. Khuynh hướng Xã hội phát triển mạnh.
- Việc kết bạn trở nên chặt chẽ, có tính cách chọn lựa và lâu bền, có quy định hẳn hoi để giúp nhau, bênh vực nhau. Nhưng cũng có nguy cơ biến thành băng đảng nếu không được quan tâm hướng dẫn và kiểm soát.
- Coi mình là người lớn, không muốn người lớn phải nhắc nhở những việc nhỏ như nhớ đội nón khi ra đường…
- Có quan tâm, đặt lại vấn đề đối với các giá trị gia đình, học đường xã hội (VD: tập tục, kỷ luật, phép tắc…của gia đình, học đường, xã hội).
à Nên:
- Tán đồng, khuyến khích các em có bạn. Giáo dục các em về giá trị của tình bạn, tình đồng đội, trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Cách tốt nhất là tập cho các em sinh hoạt theo Phương Pháp Hàng Đội.
- Đọc ra hoặc nhìn nhận nguyên nhân của sự phản kháng của các em, bình tĩnh giúp các em hiểu và tự định lại thái độ. Không thể ép các em chấp nhận điều các em chưa thông.
6. Dễ bị lôi cuốn bởi trào lưu xã hội.
Môi trường sống của các em không còn thu gọn trong gia đình và mái trường nữa. Các em đã tiếp cận xã hội với tất cả những phức tạp của nó.
- Thoát ra khỏi vòng kiểm soát của gia đình, các em gặp phải ngay ảnh hưởng của xã hội. Ảnh hưởng xã hội không hoàn toàn xấu như những người bi quan thường gán cho nó. Thật ra ảnh hưởng xã hội rất đa dạng, xấu tốt lẫn lộn, nhưng tất cả đều có sức lôi cuốn! Trong xã hội có những đoàn thể làm công tác phục vụ cộng đồng, cũng có những phong trào làm băng hoại cộng đồng.
- Vấn đề là các em được hay bị đẩy vào môi trường nào, khung cảnh nào, bầu khí nào. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!
- Những em rơi vào các băng đảng quậy phá, đua xe… là vì các em không có việc gì làm để tiêu thụ “năng lực thặng dư” nơi các em. Tội lỗi không hoàn toàn tại các em mà phần lớn do xã hội và cộng đồng đã không tạo cơ hội cho các em phát triển thể hiện chính mình.
à Trên cơ sở nhận thức rằng tuổi này không muốn ở không, luôn thích làm việc. Do đó:
- Không nên để các em quá nhàn rỗi, cần tạo cho các em một khung cảnh sinh hoạt lành mạnh, hướng đến lợi ích cho chính bản thân các em và cộng đồng, sao cho các em nhìn thấy hiệu quả tốt trong đó các em có góp phần vào.
- Tổ chức cho các em tham gia các chiến dịch thi đua văn nghệ, thể thao để “tiêu thụ sức mạnh thể lý đang bùng lên” của các em; làm công tác từ thiện, bác ái để đáp ứng cái “máu nghĩa hiệp” rạo rực trong tâm hồn của lứa tuổi này.
7. Anh hùng tính.
- Mang trong mình mầm mống bất mãn, không bằng lòng với sự gò bó của luật lệ, rất nhạy cảm với những sự bất công, áp bức và những sự kiện thương tâm.
- Sẵn sàng can thiệp khi thấy bạn bè, người thân hoặc kẻ cô thế bị đối xử bất công.
- Sẵn sàng lăn vào công việc cứu tế.
- Mặt trái của anh hùng tính là khuynh hướng bá chủ, khuynh loát và “hỗn xược”.
à Trưởng cần:
- Đưa các em vào vai trò tổ chức và chỉ huy người khác, để các em sẽ nhận ra sự cần thiết của luật lệ. Các em sẽ nhận ra thái độ và phản ứng của cấp dưới, từ đó giúp các em nhìn lại những thái quá hoặc bất cập của chính mình nhằm điều chỉnh khuynh hướng bá chủ và khuynh loát hoặc “hỗn xược”.
- Giúp các em tìm hiểu nguyên nhân của sự bất công, áp bức trong từng sự kiện, yêu cầu các em tìm ra một giải pháp tốt hơn với mục đích làm cho các em hiểu rằng muốn đập phá cái cũ, phải có cái mới và tốt hơn để thay thế, không chỉ đập phá vô trách nhiệm.
8. Phái tính phát triển rõ nét.
Đây là tuổi phát dục.
- Đã có sự phân biệt rõ rệt giữa nam và nữ cả về thể lý (nam mạnh hơn nữ rất nhiều) lẫn tâm lý (nữ ý tứ và có vẻ người lớn hơn nam).
- Rất nhạy cảm về cảm giác giới tính: Bắt đầu thắc mắc về chính mình và người khác phái, hậu quả tiêu cực là sự tò mò, tìm hiểu, có thể gây ra những hậu quả tai hại lâu dài về sau nếu không được hướng dẫn bởi người có kinh nghiệm.
- Về mặt sinh lý, ở tuổi 13 các em nữ đã có thể được coi là người lớn, vì đã có khả năng làm mẹ. Các em nam có thể trễ hơn, vào khoảng 15 đã có khả năng làm cha.
- Nhưng về tâm lý thì chưa đủ để đảm trách vai trò quan trọng này.
- Bắt đầu có sự mâu thuẫn nội tại: e dè với bạn khác phái, nhưng lại cuốn hút lẫn nhau. Khác với tuổi ấu thơ: chẳng cuốn hút cũng chẳng e dè (cùng nhau tắm mưa thoải mái!).
à Đối với lứa tuổi này:
- Giới hạn các trò chơi chung nam nữ, nhất là những trò chơi mạnh vì sự không cân bằng về sức mạnh và tránh những đụng chạm không cần thiết.
- Tránh làm mất mặt các em trước các bạn khác phái.
- Tỏ ra thông cảm, gần gũi đến mức các em có thể giãi bày tâm sự, từ đó hướng dẫn các em cả về tâm lý lẫn sinh lý nhằm giúp các em vượt qua lứa tuổi nguy hiểm này cách an toàn.
9. Muốn được người lớn tín nhiệm và giao việc.
- Vốn sẵn có sức mạnh dư thừa, có khuynh hướng kết bạn, có tính hiếu động, các em muốn được người lớn tin cậy và giao cho làm việc gì đó để khẳng định mình.
- Khẳng định mình là nhu cầu tự nhiên của con người trong cộng đồng. Ở mức độ nào đó, sự khẳng định mình là cần thiết để các em có thể hiện diện và đóng góp với cộng đồng cách tích cực và có ý thức, là hành vi của nguời quân bình và trưởng thành.
à Hãy: Cẩn trọng tin tưởng và giao phó cho các em những việc vừa sức, để các em tự nghĩ cách thực hiện. Đồng thời quan sát, theo dõi và hỗ trợ khi cần sao cho các em cảm thấy chính các em đã có phầ n tích cực trong sự thành công mà không cần kể công của Trưởng.
- Điều này đem đến hai tác dụng:
+ Các em phấn khởi, tự tin hơn trong những công tác sau.
+ Qua làm việc, các em tự nhận ra giới hạn của mình, vì trong thâm tâm các em thừa nhận rằng trong sự thành công này các em không làm tất cả mà còn cần có sự trợ giúp của các Trưởng. Các em sẽ bớt “nổ” và kiêu căng để tiến dần đến sự trưởng thành quân bình.
10. Thẳng thắn, không thích quanh co.
Tuy đã vượt ra khỏi tuổi ngây thơ hồn nhiên, nhưng tâm hồn các em vẫn còn giữ được sự trong trắng, thẳng thắn:
- Các em nghĩ thẳng, nói thẳng, không giả dối và không muốn bị nói dối, cũng không muốn tham gia vào việc nói dối.
- Thần tượng của các em tức khắc bị sụp đổ khi các em phát hiện nơi thần tượng có điều gian dối.
- Tuy nhiên trong thực tế vẫn có những em nói dối. Đó là do ảnh hưởng của xã hội và gương xấu của người lớn trong gia đình, học đường, đoàn thể. Người lớn đã đưa các em vào vòng nói dối vì quyền lợi của mình, của đoàn thể mình, trường mình.
- Gương xấu gian dối ngày nay vô cùng phổ biến trong xã hội, kể cả trong trường học và gia đình…
à Việc thi cử, làm bài, kinh doanh, quảng cáo, kể cả các việc đạo, trò chơi…
- Đừng bao giờ vì thân quen, vì danh hiệu hay vì phần thưởng của đơn vị mình mà đưa các em vào hoàn cảnh phải nói dối.
- Trước mắt các em có thể hể hả về thắng lợi, nhưng về lâu về dài các em không phục và vô tình tạo cho các em cái gương xấu về sự nói dối. Hậu quả sẽ là chúng ta đã phá hỏng con người các em. Và gậy ông sẽ đập vào lưng ông!
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các Trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất.
Sự hợp tác chặt chẽ giữa Đoàn Thể – Gia Đình và Học Đường là cách giáo dục thiếu nhi hữu hiệu nhất.