CHÚA GIÊSU – NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN, MẪU GƯƠNG CỦA GIÁO LÝ VIÊN |
Chúa Giêsu đã nhiều lần tuyên bố rằng đức tin cần thiết để được cứu độ: “Ai tin, người ấy sẽ được cứu”.
Thánh Phaolô khẳng định: “người công chính sống nhờ đức tin” (Gal 3,11), và ta cũng đọc thấy trong thư Do Thái: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,6).
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi … và giảng dạy muôn dân” (Mt 28,19-20). Dựa vào đây, ta cũng có thể quảng diễn như sau: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, nghĩa là giáo dục muôn dân trong niềm tin mà Ta đã dạy dỗ anh em như những người môn đệ của Ta”. Các môn đệ đã làm theo lệnh truyền đó trước khi viết Tin Mừng, họ ra đi khắp thế giới để loan báo mầu nhiệm ơn cứu độ, khuyên bảo mọi người tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Thật vậy, thánh Phêrô đã loan báo: “Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36).
Các anh chị giáo lý viên thân mến! Như các tông đồ xưa đã mạnh dạn, hăng say loan báo Tin Mừng và làm cho nhiều người tin vào Chúa Giêsu Kitô; ngày nay, đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, chắc hẳn các anh chị cũng muốn tiếp nối bước chân rao giảng của Ngài, sẵn sàng lên đường thi hành sứ vụ mà Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đã ủy thác.
Gần đây, các văn kiện của Giáo Hội về việc dạy giáo lý đã nêu rõ: việc dạy giáo lý là một hoạt động giáo dục đức tin, và khẳng định: Giáo lý viên là nhà giáo dục đức tin. Đúng thế, dạy giáo lý là giáo dục đức tin, và các anh chị chính là những nhà giáo dục đức tin, vậy, đâu là cách mà một nhà giáo dục đức tin phải thực hiện? Ai có thể chỉ cho chúng ta “phương pháp sư phạm” đáng tin cậy nhất và hữu hiệu nhất?
Qua việc chiêm ngắm Chúa Giêsu, trung tâm điểm đời sống người giáo lý viên, vị Tôn sư, Thầy dạy gương mẫu, nhà Mô phạm hoàn hảo và tấm gương tuyệt vời cho các nhà giáo dục, chúng ta sẽ được Ngài chỉ cho chúng ta một nghệ thuật giáo dục đức tin hoàn hảo mà Ngài đã trải nghiệm trong suốt 3 năm thi hành sứ vụ rao giảng của Ngài.
Để chuẩn bị đi vào cuộc chiêm ngưỡng-học hỏi này, trước hết chúng ta cùng phân tích và tìm hiểu một cách khái quát về nhận định dạy giáo lý là giáo dục đức tin, tiếp đó tìm hiểu những khả năng mà người giáo lý viên- nhà giáo dục đức tin cần có, và sau cùng, chúng ta sẽ chiêm ngắm Chúa Giêsu, Nhà giáo dục đức tin, với nghệ thuật giáo dục tuyệt vời của Ngài qua các trình thuật Tin Mừng.[1]
1. DẠY GIÁO LÝ LÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN
Từ xa xưa, thuật ngữ Dạy Giáo lý đã được dùng để gọi toàn bộ các nỗ lực của Hội Thánh nhằm giúp người ta tin theo Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và nhằm giáo dục, huấn luyện họ trong cuộc sống đời này để nhờ tin mà họ được sống nhân danh Chúa Kitô, và nhờ giáo dục mà họ xây dựng thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội.
Tìm hiểu trong các văn kiện của Giáo Hội về việc dạy giáo lý gần đây, chúng ta thấy rõ việc dạy giáo lý là một hoạt động giáo dục đức tin,[2] và, Giáo lý viên là nhà giáo dục đức tin, người biết tạo điều kiện thuận lợi cho sự trưởng thành đức tin mà người dự tòng hay học viên giáo lý thực hiện với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, giáo lý viên chỉ là người tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển một kinh nghiệm đức tin chứ không phải là người đặt để. Chính Thiên Chúa mới là Đấng đã đặt để đức tin vào lòng con người. Như vậy, rõ ràng đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban chứ không phải do giáo dục mà có.[3]
Nghiên cứu quá trình phát triển phong trào giáo lý, người ta thấy thuật ngữ giáo dục đức tin xuất hiện nơi các quốc gia có nền văn hóa la-tinh từ sau thế chiến thứ hai.
Giáo dục đức tin là một hình thức đặc trưng để chỉ bước chuyển tiếp từ “sách giáo lý” đến việc “dạy giáo lý” (catechismo → catechesi), từ việc dạy tôn giáo truyền thống đến một hoạt động giáo lý chú trọng hơn về tính đặc thù cơ bản của Lời Chúa và sự đáp trả của người tin vào Lời Ngài. Nói cách khác, đây là bước chuyển tiếp từ việc dạy các giáo huấn đến việc giáo dục đức tin.
Ngoài ra, lối diễn tả giáo dục đức tin có những nét ưu việt trong việc canh tân giáo lý ngày nay. Nhìn theo khía cạnh giáo dục, chúng ta thấy toàn bộ nền sư phạm đương thời có ảnh hưởng trên việc dạy giáo lý, trong khi đối chiếu với đức tin, ta thấy đó là toàn bộ tiến trình tái khám phá thần học về bản chất của sứ điệp Kitô giáo và về sự phong phú đặc thù của thái độ tin. Người ta cũng nói đến việc dùng những lối diễn tả khác đồng nghĩa như: truyền thụ đức tin, phục vụ đức tin, giáo dục đến đức tin, vv.
Những khó khăn và những phản đối về lối diễn tả việc dạy giáo lý như là giáo dục đức tin
Một số người cho rằng có sự khác biệt về nghĩa và về tham vọng khi nói giáo dục đức tin, nghĩa là việc giáo dục ảnh hưởng trực tiếp trên đức tin, điều khiển đức tin một cách nào đó từ bên ngoài. Tuy nhiên, nên nhớ rằng, trong mọi trường hợp, người ta chỉ có thể nói đến giáo dục đức tin theo nghĩa con người là tác nhân trung gian trong tiến trình làm thức tỉnh và tăng trưởng thái độ tin, trong khi Thiên Chúa trực tiếp ngỏ lời với con người một cách nhưng không và con người hoàn toàn tự do đáp trả lời Ngài.
Một số ý kiến khác lại muốn phân biệt giữa việc dạy giáo lý và giáo dục đức tin.
Trong văn kiện của Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha nói rằng: “giáo dục đức tin được đặt nền tảng trên Thừa tác vụ Lời, ví dụ như việc giảng dạy cộng đoàn Kitô hữu, bài giảng trong thánh lễ, việc dạy môn tôn giáo trong trường học, việc huấn luyện trong các phong trào tông đồ, giáo dục Kitô giáo trong gia đình, giáo dục gợi ý trong trường học, loan báo sứ điệp qua các phương tiện truyền thông, dạy các môn thần học, các khóa linh thao, tĩnh tâm, các khóa và những ngày chia sẻ, học hỏi, vv. Chắc chắn mọi cách thức giáo dục đức tin đều có một khía cạnh giáo lý, nhưng thực ra không có nghĩa là dạy giáo lý (Catequesis de la comunidad, Madrid, EDICE, 1983, n.59).
Giáo lý được xem như là việc giáo dục vì giáo lý đảm trách bản chất cốt lõi của sư phạm, đó là sự tham gia có chủ đích vào tiến trình tăng trưởng cá nhân tự do, nội tâm hóa, và tham dự vào việc phục vụ một kế hoạch hiện hữu có hiệu lực, mở ra những giá trị và khả năng biện phân phê bình. Sự lưu tâm đến bản chất sư phạm này cần phải giải thoát giáo lý khỏi nguy hiểm sẽ xảy ra về sự thiếu trưởng thành đến mức ngây ngô, hoặc là né tránh vào thuyết “siêu nhiên chủ nghĩa”, vv. Sự lưu tâm đúng đắn vào những đòi hỏi giáo dục của việc dạy giáo lý cần có một sự trợ giúp tương xứng để loại trừ những suy nghĩ méo mó thường xảy ra hoặc giản lược không đúng chức năng của việc dạy giáo lý, đó là hiểu nó đơn giản chỉ là việc dạy những nội dung tôn giáo, hoặc như tiến trình xã hội hóa tôn giáo, hay như việc truyền thụ giáo điều không hơn không kém, vv. Đặc biệt trong viễn tượng sư phạm, đòi hỏi việc dạy giáo lý không được quên những điều kiện liên can đến sự tăng trưởng đức tin và cần chú ý đến những đòi hỏi của sự năng động trong việc trưởng thành nhân bản và trưởng thành Kitô hữu.
Giáo lý được xem như là việc giáo dục đức tin, thật vậy giáo lý được mời gọi nhắm đến tính hiện sinh và những chiều kích cơ bản phong phú của giáo lý. Điều này muốn nói: thật không đúng nếu như việc dạy giáo lý chỉ dừng lại trên một bình diện đặc biệt nào đó của tính năng động đức tin, ví dụ như việc hiểu biết chân lý được mạc khải, hoặc thủ đắc những hạnh kiểm tốt về mặt luân lý, nhưng cần nới rộng bổn phận dạy giáo lý đến tính phức tạp và bề dày của thái độ tin như là sự đáp trả cá nhân và trọn vẹn cho kế hoạch sống Kitô giáo, đó là sự gắn bó và “bước theo” Chúa Giêsu. Trong viễn tượng này, việc dạy giáo lý được nhìn như là việc giáo dục đức tin, cần phải cẩn thận để không lệch lạc khỏi bổn phận của mình trong những chức năng của những thực tại khác, mặc dù liên quan đến đức tin, cũng không đồng hóa với đức tin (như là việc hiểu biết thần học, truyền thống tôn giáo) hoặc ngay cả sự phủ nhận đức tin (như những hình thức khác nhau về ý thức hệ tôn giáo).
Việc lên kế hoạch và thực hiện việc dạy giáo lý cho thấy sự phong phú của những hiệu quả và những hướng dẫn, xác định việc giáo dục đức tin. Điều này cho phép tổ chức và điều khiển toàn bộ thực tại giáo lý trong đường lối của một phương pháp giáo dục đúng đắn và trưởng thành nhân bản trong lãnh vực đức tin. Ví dụ, ta tìm thấy ở đây, tiêu chuẩn định hướng để giải quyết không ít những vấn đề truyền thống của việc thực hành giáo lý, những việc đó là: sự đầy đủ về nội dung, vai trò của việc ghi nhớ, chiều kích kinh nghiệm, việc sử dụng những phương pháp hoặc những kỹ thuật khác nhau, vv. Nói chung, tính năng giáo dục hệ tại ở việc phục vụ sự tăng trưởng và trưởng thành đức tin, vì thế cần xây dựng và đưa ra mối then chốt quyết định để điều chỉnh những yếu tố khác nhau của mọi tiến trình giáo lý.
2. GIÁO LÝ VIÊN, NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN
Tại sao người ta gọi giáo lý viên là nhà giáo dục đức tin, và đâu là những khả năng mà người giáo lý viên cần có và phải rèn luyện khi thi hành sứ vụ giáo dục quan trọng này?
Trong Hướng dẫn tổngquát việc dạy giáo lý 1997 nêu rõ: Giáo lý viên là người không những có khả năng giảng dạy, mà còn có khả năng đào tạo Kitô hữu toàn diện, là nhà giáo dục về con người và về đời sống con người trong đức tin,[4]vì thế giáo lý viên vừa là thầy, là nhà giáo dục và là chứng tá. Thật vậy, với những nhiệm vụ khai tâm, giáo dục và giảng dạy (giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn, khai tâm cho việc truyền giáo) giáo lý viên vừa phải hiểu rõ sứ điệp mà mình truyền đạt, vừa phải biết rõ con người đang chuẩn bị đón nhận sứ điệp đó cũng như bối cảnh xã hội mà họ đang sống.
Vậy, khi nói giáo lý là giáo dục đức tin và giáo lý viên là nhà giáo dục đức tin, ý nói: trong việc giáo dục đức tin, con người chỉ là tác nhân trung gian theo nghĩa tác nhân đệ nhị (thứ yếu, phụ thuộc) và là công cụ để trợ giúp tiến trình thức tỉnh và tăng trưởng thái độ tin của “người học giáo lý”, tác nhân phụ này luôn ở bên ngoài mọi sựcan thiệp trực tiếp trên chính đức tin, sự can thiệp trực tiếp này là chính hoạt động nhưng không của Thiên Chúa và sự tự do đáp trả của con người. Như vậy, nhiệm vụ của giáo lý viên là tập trung vào việc vun trồng ơn huệ này, cống hiến, nuôi dưỡng và giúp tăng trưởng ơn đức tin đã được Thiên Chúa gieo trồng.[5]
Nhiệm vụ này đòi hỏi người giáo lý viên cần có nhiều khả năng khác nhau để đáp ứng cho muôn vàn thách đố trong thời đại chúng ta ngày nay, cụ thể như sự ồn ào náo nhiệt, vội vã, thích hưởng thụ khoái lạc, thời đại của kỹ thuật hóa và thực dụng, con người thiếu suy tư hay ngại suy nghĩ, ham thích những tiện nghi của cải trần thế mà sao nhãng những giá trị siêu nhiên, nhiều người lớn nhụt chí trước những bất công xã hội, đe dọa đến độ mất đức tin, con người bị ảnh hưởng bởi khái quát hóa và xã hội hóa; đối với giới trẻ, họ thường gặp phải khó khăn trong việc trưởng thành đức tin và xảy ra nơi họ là rất nhiều biểu hiện tôn giáo bị giản lược thuần túy vào những hình thức bên ngoài và những thực hành tôn giáo theo thói quen.
Có nhiều khả năng khác nhau, nhưng ở đây chúng tôi xin đề nghị một vài khả năng chính yếu, liên quan đến tiến trình khai tâm Kitô giáo: khả năng trong tương quan, khả năng loan báo và kể chuyện, khả năng giáo dục người ta biết đọc những dấu chỉ của Thiên Chúa, khả năng dẫn người ta vào đời sống cộng đoàn.
Khả năng xây dựng các mối quan hệ
Giáo lý viên, trước khi là người thông truyền nội dung đức tin, phải là người có khả năng thiết lập các mối quan hệ tích cực và sâu sắc, điều này cũng được xem là yếu tố quyết định cho việc tiếp nhận nội dung đức tin truyền đạt. Chúng ta cần chú trọng những điểm sau:
- “Buổi học giáo lý” phải được xem như không gian của sự gặp gỡ, nơi đó giáo lý viên, nhà giáo dục đức tin cần duy trì mối quan hệ “thầy-trò” với các em thiếu nhi và với gia đình các em. Phải biết tạo ra một sự hỗ tương giáo dục mà trong đó, giáo lý viên cần giữ vai trò “người lớn” không chỉ vì tuổi tác mà là vì sự trưởng thành, chín chắn.
- Thiết lập những tương quan tự do không lệ thuộc với chính học viên và việc dạy giáo lý phải đặt gần gũi với hoàn cảnh các em, cống hiến cho các em cơ hội bước đi trong đức tin, cơ hội học sống niềm tin, cơ hội chia sẻ và cử hành niềm tin với cộng đoàn những người lớn.
- Luôn sống những mối tương quan một cách mới mẻ và không bao giờ khép lại với những kinh nghiệm khác để tránh sự xa lánh, thờ ơ.
- Mở rộng không gian liên kết với những tiềm năng đa dạng của tất cả các thành viên trong cộng đoàn, đặc biệt trong đối thoại với cha mẹ, và những người thân của các em.
- Biết làm việc nhóm, không áp đặt, thống trị, mà cần liên kết với những người lớn, những người có kinh nghiệm lâu năm về mục vụ giáo lý.
Khả năng loan báo và tường thuật
Rao giảng Lời Chúa, loan báo Tin Mừng là khả năng cơ bản và là yêu cầu thiết yếu nơi người giáo lý viên.[6] Thật vậy, giáo lý viên là người được gọi để làm cho người ta nhận biết những kỳ công của Thiên Chúa qua tường thuật, kể chuyện, nhờ đó, giáo lý viên giúp các em có kinh nghiệm về Thiên Chúa, tìm thấy mình trong việc đối thoại với Ngài và với những người khác trong thế giới.
Cần phải biết lồng việc tường thuật những kỳ công của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người, biết hòa quyện lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu với đời sống Giáo hội và làm cho lịch sử này gắn kết với lịch sử của những người mà trình thuật nhắm tới.
Việc kể lại một câu chuyện là làm cho người nghe có được phần nào kinh nghiệm của những nhân vật trong câu chuyện. Vì thế, giáo lý viên không tường thuật đơn giản câu chuyện chỉ thuần túy là truyện, mà là ẩn chứa bên trong nét thâm sâu của chính cuộc sống.
Mỗi câu chuyện có ý nghĩa phải khởi đi từ nội tâm không hời hợt, vì thế cần có sự chuẩn bị như sau:
- có sứ điệp, đào sâu sứ điệp đó, suy đi nghĩ lại và làm sống động từ bên trong; - khám phá xem điều đó nói gì với tôi, đâu là thực tại muốn nhắm tới và làm tôi say mê; - tự hỏi xem phải nói điều gì và phải nói thế nào, đâu là trọng tâm của điều muốn thông truyền; - kết nối một cách mạch lạc kinh nghiệm của những người trong nhóm sau khi đã nghe kể chuyện; - loại bỏ những cách nói trừu tượng, sử dụng nhiều hơn ngôn ngữ biểu tượng và gợi mở; - cảm nhận những bất an và đau khổ của con người ngày nay để câu chuyện đi vào cõi lòng họ.
Khả năng dạy người ta biết đọc những dấu chỉ của Thiên Chúa
Thiên Chúa có một ý định tốt đẹp về con người là đưa con người vào sự hiệp thông mật thiết với Ngài, về phía mình, con người cần ưng thuận, lưu tâm để đón nhận điều mà Thiên Chúa đang thực hiện.
Người giáo lý viên có nhiệm vụ mở ra những kinh nghiệm đức tin để làm cho những kinh nghiệm đó có ý nghĩa và dễ hiểu trong hoàn cảnh sống cụ thể, theo cách mà có thể đặt câu hỏi cho các em và gia đình các em, thúc đẩy họ quyết định. Giáo lý viên phải giúp đỡ để các em khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những biến cố trong cuộc sống, nơi những dấu chỉ phụng vụ và nơi các tạo vật, từ đó các em cử hành sự hiện diện mà các em cảm nghiệm.
Một cách giải thích chú trọng đến thực tại và những dấu chỉ, đòi hỏi người giáo lý viên phải:
- hiểu chiều kích mới mẻ của các chủ thể, giúp cho họ tự mở ra với biến cố của sự mới mẻ đó mà mỗi cuộc sống có được. - yêu thế giới và nhìn nó như Thiên Chúa nhìn; - ở trong trời đất như trong ngôi nhà của mình, chú tâm đến những sinh vật nhỏ bé, tôn trọng môi trường; - chấp nhận những giới hạn và những bất ngờ xảy đến; - một khả năng chiêm niệm sâu sa để thực hiện cho mình và cho người những người mà vì họ mình là nhà giáo dục; - hiểu biết ngôn ngữ biểu tượng, ẩn dụ, dấu chỉ thiên nhiên và dấu chỉ phụng vụ để giúp các em giải thích chúng.
Khả năng dẫn vào đời sống cộng đoàn
Hình ảnh cộng đoàn tín hữu rõ nét nhất là giáo xứ, nơi đó kết hợp những kinh nghiệm khác nhau và việc gắn kết với cộng đoàn không đòi hỏi điều gì khác ngoại trừ có chung một niềm tin.
Người ta cũng không loại trừ hình thức cộng đoàn nơi các nhóm, các đoàn thể, nhưng mà điều kiện căn bản là sự kết nối không làm mất đi một hành trình chung để cử hành các bí tích và sự trưởng thành đức tin.
Tất cả những điều này muốn nói giáo lý viên cần chú trọng đến:
- việc tái khám phá sự hiện diện và vai trò của cộng đoàn Kitô hữu cũng như của các gia đình Kitô hữu, nơi đó các em tìm thấy và sống kinh nghiệm giáo dục; - hành trình khai tâm đòi hỏi một sự chuẩn bị đặc biệt nơi giáo dân và ngay cả giáo sĩ, để thực hiện nhiệm vụ dẫn dắt dài hơi của việc tiếp cận với các gia đình trong các hoàn cảnh khác nhau; - bổn phận và sứ vụ chung của cộng đoàn Kitô hữu thông qua những thành viên, không chỉ là cử hành mà còn là huấn luyện.
Khi phác họa chân dung người giáo lý viên như là nhà giáo dục đức tin, người ta muốn nhấn mạnh đến tính chuyên biệt của việc giáo dục để có hành vi đức tin. Điều này cũng có nghĩa là xác nhận sự dấn thân phục vụ cao quí mà rất nhiều anh chị giáo lý viên thực hiện, sao cho lời Chúa Giêsu luôn là nguồn sống và niềm vui cho các em.
Dù sao đi nữa, giáo lý viên không chỉ là người tài năng và được đào luyện tốt, nhưng còn là một dụng cụ của Thánh Thần, luôn biết mở ra và nhận biết Ngài vẫn đang hoạt động trong các biến cố khắp nơi trên thế giới và nơi tâm hồn của những con người thời đại; Ngài luôn gây ngạc nhiên cho chúng ta trong nhiệm vụ được giao phó, đó là làm trưởng thành đức tin nơi chúng ta và giúp chúng ta gặp gỡ con người Giêsu.
3. HỌC HỎI NƠI CHÚA GIÊSU, THẦY DẠY ĐỨC TIN
Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến, Ngài là Đấng mạc khải, Nhà giáo dục tuyệt vời của các tông đồ, Ngài đã xuất hiện giữa nhân loại để loan Tin Vui, để mạc khải chân lý, để thực hiện ơn cứu độ, để dạy người ta những qui luật sống của Thiên Chúa, hướng dẫn người ta thực hành các nhân đức. Như vậy, sứ vụ của Ngài cũng là một sứ vụ giáo dục với mục đích tối hậu là dẫn người ta đến ơn cứu độ bằng một đời sống đức tin và yêu thương.
Là giáo lý viên, người được mời gọi trở nên môn đệ Chúa Giêsu trong sứ mạng giáo dục đức tin, chúng ta cũng được mời gọi chiêm ngưỡng và học hỏi nghệ thuật giáo dục của Ngài qua các trình thuật Tin Mừng. Bằng cách ứng xử và những giáo huấn của mình, Chúa Giêsu không dạy chúng ta một phương pháp sư phạm hay một lý luận dạy học, nhưng Ngài mạc khải chính Ngài cho chúng ta, để chúng ta đạt đến ơn cứu độ nhờ tin tưởng vào Ngài. Ngài đã phải theo những đường lối thông thường của con người, đó là khởi đi từ những giác quan, lý lẽ, con tim, ước muốn, từ những việc và những thói quen hàng ngày, Ngài đã phải gặp gỡ, trò chuyện với những con người cụ thể, tìm cách thuyết phục họ, Ngài đã chọn một ít môn đệ để huấn luyện họ, làm cho họ có thể sống với nhau và rồi giao trách nhiệm cho họ ra đi loan báo lời Ngài. Bằng việc thực thi hoàn hảo sứ vụ giáo dục, Ngài đã để lại cho chúng ta những tấm gương và kiểu mẫu của hoạt động dạy học mà chúng ta có thể nghiên cứu và thâu lượm để rút ra những bài học hữu ích cho hoạt động giáo dục đức tin mà chúng ta đang thực hiện.
3.1. Đức tin
Để hiểu hoạt động giáo dục mà Chúa Giêsu thực hiện nhằm giáo dục đức tin cho các môn đệ, chúng ta sẽ đọc và chú giải những đoạn Tin Mừng trực tiếp liên quan đến chủ đề mà chúng ta đang bàn tới, từ đó sẽ rút ra những nguyên lý giáo dục mà Chúa Giêsu đã thực hiện để chúng ta noi gương bắt chước Người.
Bản chất của đức tin
Đức tin Kitô giáo không phải là việc tin theo một ý thức hệ mà là tin vào một Con người: Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, đức tin Kitô giáo thể hiện một tương quan cá vị giữa Chúa Giêsu và chủ thể tin (con người).
Có niềm tin Kitô giáo, không chỉ là có “đạo” nghĩa là cảm nhận sự thánh thiêng, tuyên xưng niềm tin trong một vài nghi thức, khẩn cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện. Có niềm tin Kitô giáo có nghĩa là hiểu biết Chúa Giêsu Kitô, hiểu biết mầu nhiệm của Ngài, thiên tính của Ngài, hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài, nhận biết công trình cứu độ của Ngài, đón nhận sự hiến thân của Ngài cho chúng ta, yêu mến Ngài, dấn thân vì Ngài trong những việc mà đức tin và tình yêu thúc đẩy. Tắt một lời, tin là gắn kết với Chúa Giêsu bằng trọn con tim, hết tâm hồn và toàn bộ cuộc sống. Về phía con người, niềm tin Kitô giáo là sự đáp trả lời mời gọi và sự trao ban của Chúa Giêsu với lòng tin tưởng và quảng đại trong suốt cuộc sống.
Trong viễn tượng này, giáo dục đức tin là một hoạt động vượt lên trên việc dạy tôn giáo (dạy đạo), vì giáo dục đức tin là làm nảy sinh, lớn lên và làm sống trong tâm hồn và ý muốn của các em một mối tương quan sống động giữa các em và Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Chính Chúa Giêsu đã giáo dục con người sống đức tin như thế.
3.2. Nghệ thuật giáo dục đức tin của Chúa Giêsu
Bất cứ ai muốn hiểu thế nào là Tin và làm cách nào mà con người có thể cộng tác với Thiên Chúa trong việc làm tăng trưởng đức tin của người khác (ơn đức tin là sáng kiến của Thiên Chúa), thì điều trước tiên là phải chiêm ngắm thái độ và cách ứng xử của Chúa Giêsu, nhà giáo dục kiểu mẫu trong cách Ngài đề nghị cũng như trong cách Ngài khơi dậy đức tin nơi con người.
Qua việc phân tích những trình thuật Tin Mừng, chúng ta rút ra được 5 khía cạnh chính yếu sau:
1) Khía cạnh quy Kitô của đức tin
Với lời nói và việc làm của mình, Chúa Giêsu hướng hành vi đức tin – như hành vi yêu mến và tin tưởng – vào bản thân Ngài, như là trung tâm qui hướng, Ngài như là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Khía cạnh quy Kitô của đức tin tóm lại trong lời tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô”.
1. Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, thu hút sự chú ý của các môn đệ và những người lắng nghe Ngài nhờ đó Ngài công bố và làm cho người ta nhận biết Đấng Mêsia
Các môn đệ mà Gioan sai đến đã hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng khác?” “Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy.Người trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Lc 7,20-23).
Các môn đệ đến với Chúa Giêsu bằng tâm hồn thiện chí, tình bằng hữu và niềm tin tưởng phó thác. Ngài đòi hỏi họ lưu tâm đến chính Ngài và lời hứa mà Ngài chúc phúc cho những người tìm đến Ngài, những người có lòng thanh sạch, không hiểm độc, những người có tâm hồn rộng mở để hiểu “dấu chỉ” và mầu nhiệm con người của Ngài.
2. Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là Đấng Messia, trọng tâm của những lời tiên tri (Lc 4,16-22)
Khởi đầu công cuộc rao giảng, Chúa Giêsu đã tự giới thiệu về mình, và khẳng định Ngài chính là người hoàn tất những lời tiên báo trong Cựu ước. Ngài đã làm điều này ở Nazaret, trong ngày sabat, khi công bố đoạn Kinh Thánh trước sự kinh ngạc của nhiều người: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Và tác giả Tin Mừng thêm: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.
3. Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ như một người có uy quyền
Cách nói và lời rao giảng của Chúa Giêsu tỏ ra như một Đấng có uy quyền làm cho người nghe kinh ngạc, và khiến họ phải hỏi người này là ai. “Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ”. (Mt 7,28-29). Chính cách hoàn tất những phép lạ như thế này mà nhận được những hiệu quả tương xứng. Thánh sử Marcô sau khi trình thuật việc giải thoát một người bị quỷ ám và ra lệnh: “Câm đi và ra khỏi người này”, rồi: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! " (Mc 1,27).
4. Chúa Giêsu đã kéo các môn đệ đến với Người
Hai môn đệ đầu tiên – Gioan và Anrê – đã hỏi nơi Người ở, Người đã mời họ đến và ở lại với Người: “Hãy đến mà xem”. Bởi vì họ phải học để biết nhân tính của Người, để am tường, để đón nhận và yêu mến Người. Họ đã chấp nhận lời mời của Người: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39).
Ở lại với Người sẽ thấy và hiểu. Thật vậy, ngày hôm sau Anrê đã nói với Simon, em mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Một cuộc gặp gỡ cá nhân làm cho người ta hiểu nhau. Nếu đạt đến sự hiểu biết thì từ cuộc gặp gỡ nảy sinh tình yêu, và với tình yêu, tiến đến việc làm tông đồ, nghĩa là, mời người khác đến để hiểu về Con người ấy(Ga 1, 39-41).
Chúa Giêsu có một tương quan cá nhân với các môn đệ, một tương quan tin tưởng, Người đã chọn một nhóm nhỏ để họ theo Người, để làm nên một cuộc sống hiệp thông thực sự. Đối với các tông đồ Chúa Giêsu không là một điều gì đó trừu tượng nhưng là một con người, một người sống động. Niềm tin mà Người đòi hỏi các tông đồ là một sự tin tưởng tròn đầy nơi con người của Ngài, một niềm tin tưởng xây dựng trên Lời của Ngài, trên những công trình và hằng được nuôi dưỡng bởi một tình bạn không ngừng tăng trưởng.
5. Chúa Giêsu giới thiệu với Natanaen như là Con người
Natanaen đã bị đánh động và sửng sốt về sự mạc khải của Chúa Giêsu, những điều này tiên báo những sự kiện còn lớn lao hơn về Con người của Chúa Giêsu: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người." (Ga 1,51). – Một đoạn tương tự không thể thiếu, không phải chỉ làm kinh ngạc mà còn hướng sự chú ý đến “Con Người” cho phép thấy “các thiên thần từ Trời” lên xuống trên Ngài.
6. Tại tiệc cưới Cana, bằng một phép lạ, Chúa Giêsu nhận được sự tin tưởng của các môn đệ
Sau biến cố hóa nước thành rượu, Chúa Giêsu “bắt đầu làm các phép lạ; và các môn đệ đã tin vào Người”. Chúa Giêsu vẫn chưa truyền dạy các giáo huấn, nhưng Ngài đã làm một dấu lạ. Các môn đệ đã thấy và đã hiểu rằng nơi Chúa Giêsu có một nhân đức đặc biệt và họ đã “tin vào Người” (Ga 2,11). Ngay từ khi khởi đầu công cuộc rao giảng, Ngài đã biết kết thúc bằng một niềm tin thiết thực và trưởng thành.
7. Chúa Giêsu loan báo những dấu lạ mà Ngài sẽ thực hiện
Tại Giêrusalem Ngài đã xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ. Những người Do Thái hỏi nhau: người này là ai, lấy quyền gì mà làm những điều ấy. Và người ta hỏi Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Và Chúa Giêsu trả lời mạnh mẽ bằng những lời lẽ khó hiểu ám chỉ một dấu lạ trong tương lai: Sự sống lại.
Trong những ngày này, giữa dân chúng, Người đã làm rất nhiều dấu lạ điềm thiêng và “có nhiều kẻ tin vào danh Người”, họ bắt đầu tin tưởng nơi Người (Ga 2,23).
8. Nicôđêmô được trình bày như một người biết rất rõ về Chúa Giêsu và như người duy nhất được cứu độ
Toàn bộ cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Nicôđêmô nói về con người của Ngài, về sứ vụ cứu chuộc về bổn phận phải tin vào Ngài: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống... Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời... Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người...thì không bị lên án...” (Ga 3,11-18). Chúa Giêsu biết rằng ơn cứu độ được đặt nền tảng trên lòng tin vào Ngài và Ngài đã nói rất rõ ràng mạnh mẽ trong lần gặp gỡ với thế giới Do Thái mà Nicôđêmô là người đại diện.
Với một người Do Thái thông luật như Nicôđêmô thì điều này không thể không để lại một dấu ấn gì đó.
9. Gioan Baotixita cũng giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng Cứu độ
“Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người;Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người.Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời.”(Ga 3,31-36).
10. Với Người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu tự xưng là Đấng Mêsia
Trong cuộc đối thoại dài với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã dẫn dắt một cách tài tình, tế nhị, khiến người phụ nữ mở lòng đón nhận lời loan báo của Chúa Giêsu: “Đấng Messia chính là tôi, người đang nói với chị đây”(Ga 4,26). Và người phụ nữ đã đón nhận lời mạc khải, lập tức chạy về loan tin cho dân làng.
11. Chúa Giêsu kéo sự chú ý về mình trong suốt thời gian hóa bánh ra nhiều và ngay cả sau khi hóa bánh ra nhiều
Sau khi hóa bánh ra nhiều và dân chúng đã ăn no, người ta thấy phép lạ thì nói: “Đây thật là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Sự chú ý của họ chỉ tập trung vào con người của Chúa Giêsu với cái nhìn thuần túy nhân loại. Chúa Giêsu không chấp nhận sự nhận biết này, và Ngài dẫn họ đến niềm tin vào Ngài như Ngài là, ít là giúp các môn đệ nhận ra điều đó: “Cả anh em nữa có muốn bỏ đi không?”. Phêrô đã đáp lại một lời tuyệt vời, khẳng định niềm tin đích thực: “Lạy Thầy chúng con sẽ theo ai? Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Chúng con đã tin và biết Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga ch.6).
12. Chúa Giêsu xác nhận lời Ngài là nguồn sống
Sau khi chữa lành cho người bại liệt ở bờ hồ trong ngày sabat, người Do Thái lên án và tìm cách giết Chúa Giêsu. Bấy giiờ Chúa Giêsu nói với họ bằng giọng đanh thép, nhấn mạnh đến tính Kitô: “Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5,23). “Ai nghe lời Ta... thì có sự sống đời đời. Đấng xét xử Ta là Đấng chính trực bởi vì ...Ta tìm kiếm ý của Đấng đã sai Ta. Những lời các ông tố cáo Ta minh chứng về Ta. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga 5,10-47).
13. Chúa Giêsu gây tranh cãi về chính mình
Đến dịp lễ Lều, Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem. “Người Do Thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi? "Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Đó là một người tốt." Kẻ thì nói: "Không, ông ta mê hoặc dân chúng” (Ga 7,11-13).
Sau một cuộc cãi vã ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, Ngài nói: “Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuấtthân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người.Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi” (Ga 7,28-29).
Bấy giờ người Do Thái tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không phải ai cũng có ý nghĩ như họ. Thật vậy, thánh Gioan tường trình về đám đông như sau khi họ nói: “Khi Đấng Ki-tô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?”. “Ông này thật là vị ngôn sứ”. “Ông này là Đấng Kitô”. Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem”.Và vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ (Ga 7,31. 41-43).
14. Chúa Giêsu xác nhận: “Ta là ánh sáng”
Trong dịp lễ Lều – suốt thời gian đó người ta ở trong đền thờ, sau khi mặt trời lặn, người ta thắp những ánh đèn để tưởng nhớ cột mây chiếu sáng dẫn đưa dân Israel đi trong sa mạc – Chúa Giêsu, sau khi có những xung đột với các kinh sư và biệt phái về chuyện người ta đem đến cho Ngài xét xử người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Người công bố về chính mình: “Ta là ánh sáng”. Trước sự phản bác của người Pharisêu, Người khẳng định “Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi”. (Ga 8,18). Và “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới” (23). “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (28). Người Do Thái lại hỏi: “Ông tự coi mình là ai?” (53). Chúa Giêsu khẳng định: “Trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”(58).
15. Chúa Giêsu tự xưng là Mục tử nhân lành (Ga 10)
Trong Cựu ước, đôi lần các tiên tri đã trách mắng các vua và các đầu mục dân là những mục tử tệ hại. Với câu chuyện dụ ngôn Mục tử nhân lành, Chúa Giêsu áp dụng vào chính mình và chỉ mình Ngài có đặc quyền, xứng đáng nhận danh hiệu này. Ngài tự giới thiệu Ngài chính là người thực hiện những lời tiên tri.
16. Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là “sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,1-57)
Hình thức tin tưởng của đức tin mà Chúa Giêsu đòi hỏi, Ngài cũng vạch ra một cách rõ ràng trong biến cố sống lại của Lazarô và đặc biệt trong cuộc đối thoại với hai chị em Lazarô và thái độ của Ngài với các môn đệ. Khi đến Bêtania, hai chị em Lazarô, Marta và Maria, họ nói với Chúa Giêsu trong đau khổ và tin tưởng: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Và Marta thêm: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Sau khi nói với Marta là Lazarô sẽ sống lại, Chúa Giêsu đề cập đến một sự thật mầu nhiệm vô song về chính Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (cc 25-26).
Và ngay sau đó Người lại nói với Marta: “Chị có tin thế không?” Marta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
Trong trường hợp này các môn đệ cũng được thử nghiệm sự tín nhiệm tình bạn đối với Thầy mình, qua việc lên Giêrusalem với Thầy để chịu chết.
Thông thường, người Do Thái chia làm 2 phe. Không phải tất cả nhưng rất nhiều người tin vào Chúa Giêsu. Một số người khác thì thuật lại với người Pharisêu khiến họ phải triêu tập Thượng hội đồng để tìm cách bắt Chúa Giêsu (c.48).
Trong biến cố sống lại của Lazarô, vây quanh Chúa Giêsu là những nhóm người khác nhau với những lập trường khác nhau: có những người đầy tràn niềm tin, có những người tin không chắc chắn, có những người có niềm tin tạm bợ, cũng có những người ngờ vực và thù địch...hoặc trong tư thế độc ác với ý định giết Chúa Giêsu, đó là các thầy Thượng tế, và họ “quyết định giết cả anh Ladarô vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu” (Ga 12,10).
17. Chúa Giêsu đòi hỏi người nào “gặp Ngài” phải lưu tâm đến nhân tính của Ngài (Ga 12)
Khi Chúa Giêsu đến nhà tiệc ly, Người đã gặp mấy người Hylạp, họ xin ông Philípphê gặp Chúa Giêsu, lợi dụng cơ hội này, Người trả lời, và đề nghị họ lưu tâm về sứ mạng và nhân tính của Ngài:
Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy … Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy (26). Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (24). Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng (36). Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi (44). Ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối (46). Những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi (50).
Với những người chỉ muốn gặp Chúa Giêsu về thể lý, Ngài lại thể hiện chính dung mạo thần linh và thiên tính của Ngài. Nhưng nhất là và trên hết, Ngài đòi hỏi phải có lòng tin cậy.
Chúa Giêsu và thánh Phêrô trong biến cố rửa chân. Thánh Phêrô không muốn để Thầy rửa chân cho mình, nhưng Chúa Giêsu đe dọa ông: “Anh không được dự phần với Thầy”, qua đó Ngài mạc khải 2 điều: điều quan trọng đối với Chúa Giêsu và Phêrô đó là sự tương quan nhân vị; điều thứ hai là Phêrô đã có kinh nghiệm hạnh phúc về mối tương quan này và lo sợ bị sứt mẻ, vì thế ngay lập tức ông làm theo ý Chúa Giêsu, chấp nhận để Ngài làm hơn thế nữa (Ga 13,8-10).
18. Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là gương mẫu duy nhất mà chúng ta phải noi theo
Khi Chúa Giêsu thực hiện việc phục vụ là rửa chân cho các môn đệ, Ngài cũng yêu cầu các ông làm điều mà Ngài đã làm cho các ông. Ngay khi Ngài giải thích, Ngài đã làm gương cho các ông. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15).
19. Chúa Giêsu nói Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Cần tin tưởng nơi Ngài! Trong diễn văn cuối cùng tại bữa tiệc ly, có rất nhiều biểu hiện để tái đề nghị và nhắc lại điều cốt lõi về nhân tính của Ngài và sự cần thiết có một tương quan sâu sa với Ngài. Chúng ta trích một vài đoạn quan trọng sau:
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy (Ga 14,1). Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,16). Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy (Ga 14,11). Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm (Ga 14,12). Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy (Ga 14,15). Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy (Ga 14,21). Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy (Ga 14,24). Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho (Ga 15,1). Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,15). Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội (Ga 15,22). Chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến.Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian (Ga 16,27-28).
20. Chúa Giêsu khẳng định mình phải được nhìn nhận như là Đấng được Cha sai đến (Ga 17)
Trong lời nguyện hiến tế, trước khi đi chịu chết, Chúa Giêsu cũng hướng về Cha trước mặt các môn đệ. Ngài đã nhiều lần tự giới thiệu mình như điều kiện tin và như nguyên lý của ân sủng mà Ngài kêu gọi con người tin theo.
“Xin Cha tôn vinh Con Cha... Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,1-2). “Con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy..., và họ đã tin là Cha đã sai con” (8). “Thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con...” (23). “Lạy Cha..., con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con” (25).
21. Chúa Giêsu sẽ về Trời, ngự bên hữu Chúa Cha
Trong suốt thời gian trước Thượng hội đồng và quan tổng trấn Rôma, Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định, hầu nhắc nhở về điều mà Ngài đã mạc khải về bản thân mình.
Philatô đã hỏi Ngài xem có phải là vua không, Ngài đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. (Ga 18,37). Các Thượng tế đã nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26,63-64).
Vì khẳng định như thế nên Chúa Giêsu đã phải chết.
Chúa Giêsu cũng nói đến sự chiến thắng trong tương lai, mà Ngài biết Ngài chính là Đấng chiến thắng.“Bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24,30).
22. Chúa Giêsu đặt vấn đề về chính mình khi hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai?”
Tại Xêdarê Philiphê, Chúa Giêsu, sau khi sống với các môn đệ khoảng hai năm, Ngài muốn tập trung sự chú ý của họ về chính mình nên đã đặt cho họ hai câu hỏi. Trước hết Ngài hỏi họ: Người ta nói gì về Thầy. Rồi Người hỏi trực tiếp các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
“Biết” nhờ tin, điều này, theo Đức Giêsu, là sự khôn ngoan tột bực: biết Chúa Giêsu vì Ngài thực là Ngài: là Đức Giêsu Nazaret, Con bà Maria. Thánh Phêrô đã trả lời rất chính xác, khi được Chúa Giêsu hỏi “Người ta bảo Thầy là ai?”. Câu trả lời của thánh Phêrô không bâng quơ, mà đầy trách nhiệm: Ngài xứng đáng là đá tảng, Ngài nắm vững chắc những then chốt của Nước Trời (Mt 16,13-20). Tin là “biết” Đức Kitô và tiếp nhận, gắn bó với Người.
23. Chúa Giêsu là đối tượng và nội dung của đức tin
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ tin vào Ngài và điều mà Ngài nói về chính mình.“Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến. (Ga 17,3).
Trước khi nói những lời này, Người đã nói: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,1-2).
“Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi;ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,44-46).
24. Phải tin vào lời của Ngài
Khi Philiphê và các môn đệ chất vấn Chúa Giêsu, Ngài hỏi xem họ có tin vào lời của Ngài không, bởi vì Lời Ngài là lời chân lý đích thực của Cha, thông qua Ngài. Nều họ không tin Lời ngài, học cũng không tin những việc Ngài làm.
“Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm”(Ga 14,10-11). “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó” (Ga 10,37-38).
“Con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con” (Ga 17,8).“Con đã truyền lại cho họ lời của Cha” (Ga 17,14). “Chính Thầy là sự thật” (Ga 14,6).
Chúa Giêsu cũng là trung tâm sống động của ơn cứu độ. Để được cứu cần phải đi sau Ngài và từ bỏ chính mình. Ai mất mạng sống mình vì Ngài, sẽ được cứu (Lc 9,23-24). Ai xấu hổ vì Chúa Giêsu trong cuộc đời này, cũng sẽ bị Chúa Giêsu làm cho xấu hổ khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài (26).
25. Niềm tin vào Chúa Giêsu là một hồng ân (ơn ban) của Thiên Chúa Cha
Thánh Phêrô không tự lừa dối mình để khám phá sự thật siêu nhiên về thiên tính của Chúa Giêsu; ông đã được Chúa Cha mạc khải điều huyền nhiệm này. Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy (Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa), nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).
Phúc cho những kẻ tin. Chúa Giêsu sau khi tạ ơn Cha vì đã giấu những sự thật ấy để mạc khải cho những người bé nhỏ, Ngài công bố những lời mà Chúa Cha muốn mạc khải cho. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy (Ga 6,44).
Ở với Người trên Thiên Đàng (Lc 23,43). Với người cùng chịu đóng đinh với Ngài, người mà xin Ngài nhớ đến khi Ngài về Nước Ngài, Chúa Giêsu đáp: “hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Trong lúc đau đớn tột cùng, với những lời này, Chúa Giêsu đã đề nghị và khẳng định thế nào là tâm điểm con người, thế nào là nhân tố ơn cứu độ.
26. Chúa Giêsu luôn hiện diện nơi các tông đồ và nơi mỗi người. “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40).
Sau khi về trời Chúa Giêsu vẫn là trung tâm và cùng đích sự sống. Ai đón nhận một trong những kẻ bé mọn là đón nhận chính Ngài. Ai làm một việc tốt và yêu thương anh em bằng tình yêu của Ngài, Ngài sẽ xem như ta làm cho Ngài. Dung mạo của Đức Kitô có thể tìm thấy nơi những người anh em bất hạnh, giúp đỡ anh em sẽ luôn được kể là giúp đỡ chính Chúa, con người Đức Giêsu Kitô.
2) Khía cạnh chủ thể của đức tin
Bằng lời nói và việc làm Chúa Giêsu đề nghị khuyến khích mạnh mẽ việc làm chủ động cá nhân từ phía học viên. Học viên chính là chủ thể của đức tin. “Tôi tin”. “Tôi tin tưởng nơi Ngài”. Chúa Giêsu biết đức tin bao gồm – từ phía con người – lời đáp trả của sự tin tưởng và dấn thân, phát sinh từ con tim và ước muốn tự do. Chúa Giêsu quan tâm, lo lắng, khơi dậy và củng cố đức tin nơi các môn đệ và những người lắng nghe Ngài.
1. Cần thiết một khả năng cảm nhận siêu nhiên
Sau khi nghe dụ ngôn người gieo giống, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu tại sao lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng. Người giải thích: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không... Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mt 13,11-13).
Thánh sử Matthêu nhắc lại đoạn sách tiên tri Isaia: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá” (Mt 13,14-15).
Toàn bộ những điều mà Chúa Giêsu mạc khải là để sẵn sàng cứu chữa con người khỏi những kém cỏi và ban cho con người đôi mắt và đôi tai có khả năng nhận thức “những mầu nhiệm Nước Trời”, nắm bắt những tính chất siêu nhiên của lời nói, hành động và bản thân Chúa Giêsu. Lòng tin-tương quan được đặt nền tảng trên việc sở hữu khả năng nhận thức siêu việt mà Thiên Chúa ban và chính Thiên Chúa làm cho lớn lên bởi ân sủng của Ngài, bởi sự chủ động cộng tác và bởi hoạt động giáo dục của những bậc thầy về đức tin.
2. Khi thiếu khả năng cảm nhận siêu nhiên, là ơn ban của Thiên Chúa, người ta không tin
Không có một tấm lòng ngay thẳng từ phía con người và ân sủng từ Thiên Chúa, con người không thể thấy gì hơn nơi Chúa Giêsu, nếu không nói là chỉ thấy nhân tính nơi Ngài, thậm chí còn bị vấp phạm và chống đối Ngài khi đòi hỏi một điều gì đó vượt quá tầm mức con người; chúng ta thấy thể hiện nơi thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu, những người dân thành Nazaret: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a;... Vậy bởi đâu ông ta được như thế? Và họ vấp ngã vì Người” (Mt 13,54-57).
3. Sự khác biệt giữa thấy và tin
Ý muốn tích cực của Chúa Giêsu thể hiện rõ ràng trong bước chuyển tiếp diễn từ Bánh hằng sống, Ngài nói: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời,... Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin” (Ga 6,40 và 36).
“Tin” vào Chúa Giêsu là một hình thức vượt lên trên việc “thấy”, đó là Thiên Chúa ban cho linh hồn con người có “khả năng cảm nhận siêu nhiên”. Con mắt nhân loại thấy con người Chúa Giêsu, những hành vi trong cuộc sống của Ngài. Giáo hội, nếu không làm giàu bởi ân sủng của Thiên Chúa về khả năng siên nhiên cũng sẽ không hiểu được sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, sẽ trở nên như người mù. Tuy nhiên, ai có ơn Chúa sẽ được nhìn thấy.
Các môn đệ trên đường Emmau, trước khi Chúa Giêsu hiện ra, không nhìn thấy gì đặc biệt trong cuộc hành trình, chỉ khi được soi sáng trí lòng, sưởi ấm tâm hồn và đón nhận ơn Chúa, lúc đó họ mới có khả năng “nhìn thấy” Đấng Phục sinh.
4. Chúa Giêsu muốn người ta có một đức tin tích cực, chủ động, như vậy mới đạt đến những điều phi thường và được cứu độ
Có nhiều trường hợp khác nhau và rất thú vị trong đó Chúa Giêsu lưu ý những người đến xin Chúa chữa lành và cho họ biết rằng chính niềm tin của họ đã cứu chữa họ. Đây là một vài đoạn:
“Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” (Mt 9,2).
“Người đàn bà bị băng huyết nghĩ bụng: "Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!” Đức Giêsu quay lại thấy bà thì nói: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con." Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa” (Mt 9,20-22).
Chỉ có một trong mười người phong hủi được chữa lành trở lại cám ơn Chúa, Chúa Giêsu nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19).
Với người mù thành Giêricô, Chúa nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được." Đức Giêsu nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 18,41-42).
Chúa Giêsu nói với hai người mù ở Caphácnaum: "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin." Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9,28-29).
Cùng một tinh thần nhưng với 2 cách cổ vũ, (1) Chúa Giêsu ngỏ lời với ông Gia-ia và (2) với người cha của em bé bị bệnh động kinh. Với người thứ nhất, Chúa nói ngay sau khi được biết là em gái đã chết: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu” (Lc 8,50). Với người thứ hai, Chúa nói: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23).
5. Đức tin có sức cứu độ và làm cho lành mạnh
Câu nói: “Đức tin của con đã cứu con (hay nói làm cho lành mạnh), là câu Chúa Giêsu nói với người phong hủi hoặc với người mù đã được sáng mắt, và những lời khác có ý nghĩa tương tự, tỏ cho chúng ta thấy điều kiện tiên quyết phải có nơi người xin (chủ thể) để Thiên Chúa có thể thực hiện phép lạ.
Đây là đức tin-hành động, đức tin-năng động-chuyển động của niềm tin tưởng phó thác mà người tín hữu đặt nơi con người Chúa Giêsu. Đây là một tiến trình nhân loại-thần linh, trong đó cả hai (con người và Thiên Chúa) cùng tham gia.
Khơi dậy đức tin viên sĩ quan cận vệ nhà vua. Chúa Giêsu nhậm lời kêu xin của quan cận vệ mà không thể không đặt một thử thách là yêu cầu ông trở về nhà, có nghĩa là đòi ông phải tin tưởng nơi Ngài. Viên sĩ quan chấp nhận và khi trở về nhà, thấy phép lạ, nên ông và cả nhà đã tin Chúa Giêsu. (Ga 4,53).
6. Chúa Giêsu khen ngợi và ân thưởng lòng tin của người phong cùi
Khi Chúa Giêsu tiến đến gần người phong cùi, ông ta xin Người chữa lành bằng những lời sau: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Người dễ dàng nhận lời yêu cầu và không gây khó khăn nào, Tin Mừng trình bày: “Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi." Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh” (Lc 5,12-13).
Người phong hủi đã thể hiện niềm tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu. Anh ta đã nói: “Nếu Ngài muốn”, dựa vào lời đó, Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi muốn”, chẳng khác gì nói: “Anh đã thấy đấy, anh nói đúng. Tôi có thể làm ngay bây giờ, trước một lời tin tưởng rõ ràng như thế”.
7. Chúa Giêsu khuyến khích lòng tin của Phêrô
“Chúa Giêsu bảo ông Simôn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simôn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới." Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,4-5). Đây là một phần thưởng cho niềm tin tưởng phó thác.
8. Chúa Giêsu trách mắng và chấn chỉnh lòng tin yếu kém
Dựa vào hành vi “có mắt mà không nhìn, có tai nghe mà không hiểu, Chúa Giêsu cũng trở lại thái độ của các môn đệ. Ngài thấy họ tranh cãi và sợ vì không có bánh ăn. Bấy giờ Chúa Giêsu hỏi họ: “Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? Anh em chưa hiểu ư? Sao anh em có mắt mà không thấy, có tai mà chẳng hiểu gì? Anh em không nhớ chuyện năm chiếc bánh nuôi năm ngàn người sao? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu giỏ? Rồi chuyện bảy chiếc bánh nuôi bốn ngàn người nữa? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu thúng?” (Mt 16,1-12; Mc 7,15-21).
Các môn đệ đã ở với Chúa Giêsu lâu năm, đã chứng kiến nhiều phép lạ, đã biết uy quyền vĩ đại của Người, nhưng trong lúc khó khăn, họ không thấy “Con Thiên Chúa”, không thấy thần tính ở nơi Người, là Con Người có quyền lực làm những dấu lạ điềm thiêng.
9. Chúa Giêsu giáo dục và làm vững vàng đức tin của 3 môn đệ trong biến cố hiển dung
Vài ngày sau khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và sau khi Chúa Giêsu công bố cuộc tử nạn của mình, Người đem Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện. Đang khi Người cầu nguyện: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9,29 và Mt 17,2). Và họ thấy một đám mây sáng ngời bao phủ Chúa Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, và họ nghe có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Những con mắt trần thế nhìn thấy một thực tại nhiệm mầu mà những con mắt đức tin cũng phải biết “nhìn” trong thân phận con người của Chúa Giêsu, khi Ngài chịu sỉ nhục trong cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên Thập giá. Cuộc biến hình là một hồng ân ngoại thường cho 3 tông đồ để làm đức tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa của họ tăng trưởng và lớn mạnh.
10. Chúa Giêsu tôn trọng và thúc đẩy niềm tin của người mù và chữa lành anh ta (Ga 9)
Biến cố người mù từ lúc mới sinh biểu lộ tiến trình, từ con người dửng dưng với những vấn đề tôn giáo đến việc nhận biết và “nhìn thấy” nơi Chúa Giêsu “Con Người”, để tin vào Ngài và phục bái thờ lạy Ngài.
11. Chúa Giêsu rời bỏ các tông đồ để giúp họ thấm nhuần những thực tại vô hình
Kết thúc sứ mạng trần thế, Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”(Ga 16,7). Để chuẩn bị rời khỏi các tông đồ, Chúa Giêsu gởi Chúa Thánh Thần đến hoạt động nơi tâm hồn họ, soi sáng và củng cố đức tin để họ thấm nhuần thực tại vô hình. Đây là nét mà Chúa Giêsu thực hiện với các môn đệ trên đường Emmau.
12. Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn và cái chết để giúp các môn đệ chiến thắng nỗi sợ hãi và tiếp tục thẳng tiến trong niềm tin
Chúa Giêsu biết rất rõ về niềm tin tưởng mà các môn đệ đặt nơi mình, niềm tin tưởng ấy sẽ được tôi luyện mạnh mẽ qua những biến cố tiếp theo sau đó, là cuộc khổ nạn và sự chết của Người.“Này chúng ta lên Giêrusa-em và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại”(Mc 10,33-34).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, các môn đệ tỏ ra sợ hãi, và đã phải trốn tránh, nhưng sau khi Chúa Giêsu sống lại, họ nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã tiên báo và niềm tin của họ được củng cố một cách vững vàng hơn.
13. Chúa Giêsu giúp đỡ khả năng cảm nhận siêu nhiên của thánh nữ Mađalêna và tức thì đức tin của Chị được soi sáng
Mađalêna tin tưởng người làm vườn nên hỏi: xin ông hãy nói Người ta đã đặt xác Chúa Giêsu ở đâu. Nhưng bằng một giọng quen thuộc, thân thương người làm vườn đó gọi tên Cô: “Maria”. Lúc đó, con mắt thể xác không thấy, nhưng tâm hồn đã khám phá một sự chắc chắn không thể sai lầm: chính Chúa Giêsu Phục sinh.
14. Chúa Giêsu giúp các tông đồ chiến thắng sự cứng lòng
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người bận tâm đến việc làm tiêu tan sự hoài nghi, ngờ vực là những khó khăn cản trở lòng tin vào sự sống lại. Vì thế, Ngài đã hiện ra với các tông đồ làm cho các Ngài hoảng sợ khi thấy bóng ma. Nhưng Người nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”. Rồi Chúa Giêsu nói tiếp: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,38). Nhưng vì kinh ngạc và hoài nghi nên các môn đệ không thấy gì, bấy giờ Chúa Giêsu hỏi họ xem có gì ăn không, các môn đệ đưa cho Ngài và Ngài ăn trước mặt các ông.
Niềm tin vào Đức Kitô phục sinh của các tông đồ là căn bản mấu chốt để xây dựng nên niềm tin Kitô giáo sau này, dựa vào đó để nhận ra những điều Ngài đã dạy dỗ trước đây là đúng và cũng là để hiểu sự bất hạnh của cuộc thương khó. Bởi vậy, Ngài rất thận trọng trong việc hình thành đức tin nơi biến cố này.
15. Chúa Giêsu tái tạo lòng tin tưởng, cậy trông của các môn đệ trên đường Emmau (Lc 24,13-32)
Hành động mà Chúa Giêsu thực hiện nơi 2 môn đệ trên hành trình từ Giêrusalem đi Emmau, nhằm đem lại niềm tin tưởng phó thác cho họ, đây có thể được xem như một bản toát yếu và một tổng hợp của mọi hình thức can thiệp của Chúa Giêsu để khuyến khích một niềm tin như thế.
Chúa Giêsu đồng hành và nói chuyện với 2 môn đệ trong suốt hành trình Emmau. Họ không nhận ra Người vì sự “cản trở của con mắt”, vì lòng họ tràn ngập nỗi buồn và linh hồn họ ra chán nản thất vọng. Chúa Giêsu chất vấn họ, Ngài làm cho họ phải trút được tâm trạng. Rồi Ngài ngỏ lời với họ bằng giọng điệu trách mắng, sửa dạy ngọt ngào: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,25-26).
Từ lúc đó, Người thực hiện bài học dựa trên Kinh Thánh, nhắc lại lịch sử ơn cứu độ, và trình bày lịch sử theo hình thức qui Kitô nhờ đó làm cho “lòng trí họ bừng cháy lên”. Sau đó Người tỏ ý muốn đi xa hơn nữa để khơi dậy nơi các ông lòng khao khát về sự hiện diện của Người. Để làm cho các ông thỏa lòng, Người ở lại đồng bàn với họ, trong lúc đó Người chúc lành và bẻ bánh, chỉ khi đó khả năng tin của các ông trưởng thành đó là các ông nhận ra Đức Kitô Phục sinh một cách thiêng liêng điều mà trước đó các ông không hề nhận biết nơi người khách lữ hành.
Trong trình thuật này, thái độ của Chúa Giêsu mà Tin Mừng thuật lại, đã phác họa những nét đặc sắc hữu hiệu nhất về sư phạm đức tin.
16. Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người phải rèn luyện đức tin của mình
Ơn đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, mà hồng ân đó phải được đón nhận, dấn thân và làm cho sinh hoa kết trái như một nén bạc có giá trị hơn hẳn các nén bạc khác. Chúa Giêsu đã mời gọi và thúc giục các môn đệ rất nhiều lần, Ngài cho họ thấy sự cần thiết cố gắng chính là từ phía mình để làm tăng trưởng đức tin và nhận lãnh hoa trái của chính đức tin đó đem lại.
“Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: Dời chỗ đi, nhào xuống biển!, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11,23-24). "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời (Mt 10,32).
Với cha của đứa bé bị bệnh động kinh, Chúa Giêsu thử ông bằng một việc cụ thể và rất hùng hồn. Người nói:“Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin." Lập tức, cha đứa bé kêu lên: "Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9,23-24).
3) Chúa Giêsu đòi hỏi, chuẩn bị, khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin dựa vào những bằng chứng cụ thể về tình yêu vĩ đại của chính Ngài
Bằng lời nói và việc làm, Chúa Giêsu đề nghị việc xin ơn đức tin phải đi đôi với một bằng chứng cụ thể của tình yêu cá nhân. Đây là khía cạnh sư phạm của việc giáo dục đức tin.
Đối với người đời, thường thì người ta đặt sự hiểu biết thuần lý trước hết, nhưng Tin Mừng thì dường như đi ngược lại, đó là sự hiểu biết trực giác (lương tri) và bao quát, thúc đẩy, thấm nhuần và linh hoạt từ một hành vi của tình yêu hướng dẫn.
“Ai yêu mến Thầy...Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21). – Chúa Giêsu đã thi hành tất cả những hoạt động của nhà giáo dục đức tin trong một bầu khí tương quan tình yêu, như thế Ngài tỏ rõ ước muốn liên kết trong công trình giáo dục dưới hai dạng thức can thiệp. Tình yêu mà Chúa Giêsu biểu lộ bằng lời nói, bằng sự hiến mình. Điều Ngài đòi hỏi được trình bày trong 3 bước sau:
1. Tình yêu xuất phát từ Chúa Cha đến Chúa Con rồi lại chuyển đổi từ Chúa Con đến Chúa Cha: Thiên Chúa là Tình yêu. Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau
Chúa Giêsu tạo ra một bầu khí yêu thương giữa mình và các tông đồ. Vì thế, rốt cục, Ngài cảm thấy rằng không gì hơn là khởi đầu công việc mạc khải Thiên Chúa là Tình yêu, là Chúa Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị này là một sự liên đới hoàn toàn, bất tận, là bản thể yêu thương: Chúa Cha yêu mến Chúa Con vô tận và Chúa Con đáp lại bằng một tình yêu vô biên. Đây là một "xã hội tình yêu". “Thiên Chúa là tình yêu và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 4,16). Và Ngài thêm: “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu ấy”.
“Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). Về phần mình, Chúa Con yêu mến Chúa Cha và chấp nhận minh chứng cách quảng đại là hy sinh đến cùng “Chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây! (Ga 14,31).
2. Chúa Cha và Chúa Con yêu thương loài người vô bờ bến
Chúa Giêsu tỏ rõ tình yêu của Chúa Cha cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Chúa Giêsu nói rằng Ngài yêu nhân loại như Chúa cha yêu mến Ngài “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9).
Mà Chúa Cha yêu mến nhân loại trực tiếp: “Chính Chúa Cha yêu mến anh em, để anh em yêu mến và tin rằng Thầy bởi Cha mà ra”.
Tình yêu của Cha và Con có thể trú ngụ nơi con người: “Con đã cho họ biết danh Cha", và sẽ còn cho họ biết xử sự với các môn đệ như những bạn hữu chứ không như những người tôi tớ, Ngài nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết(Ga 15,14-15).
Bằng chứng tình yêu mà Chúa Giêsu thể hiện, đó sự hiến mạng sống Ngài cho các bạn hữu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
3. Để có niềm tin con người phải đáp lại tình yêu Thiên Chúa
Con người phải đáp lại tình yêu của Chúa Giêsu Kitô và của Chúa Cha để nhận được sự mạc khải của Chúa Con, để đạt đến niềm tin và ơn cứu độ. Từ “chọn” được tìm thấy trong Tin Mừng Gioan đến 34 lần, để chỉ:
- Tình yêu giữa Cha và Con; - Tình yêu của Cha và Con cho chúng ta; - Tình yêu mà Chúa Con đòi hỏi nơi chúng ta và tình yêu mà Ngài nhận được từ một số người trong chúng ta.
Tình yêu dành cho Thiên Chúa là điều vô cùng quan trọng hơn cả các lệnh truyền của Ngài: “Điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Mt 22,37).
Thiên Chúa phải được yêu mến trên hết mọi người, mọi sự: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
Ai yêu mến Thiên Chúa thì được Thiên Chúa viếng thăm và ở lại với người ấy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Tình yêu được thử thách bằng sự tuân phục lề luật: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). “Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy” (Ga 14,24).
Tình yêu nhận được lòng thương xót và tha thứ tội lỗi: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều (Lc 7,47). Tình yêu thúc bách việc nhận ra Chúa Giêsu phục sinh: Bâý giờ, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó!” Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phêrô vội nhảy xuống biển (Ga 21,7). Mang trách nhiệm lãnh đạo nhóm của Chúa Giêsu, Phêrô được thử thách tình yêu: “Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy."(Ga 21,15-17).
Tình yêu dành cho Thiên Chúa phải mở rộng đến tha nhân: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34) “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
Yêu thương nhau là sự trợ giúp đức tin: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21).
Trong cuộc gặp gỡ với hai môn đệ trên đường Emmau, trong khi nói cho họ hiểu, Chúa Giêsu cũng đánh động con tim, để họ cảm thấy “bừng cháy lên”. Điều này Ngài đã làm vì tình yêu để chuẩn bị khai sinh đức tin.
Nhưng lời tỏ rõ hơn, sâu sa hơn và định hướng rõ hơn của Chúa Giêsu về sự liên kết giữa tình yêu và đức tin đó là lời có khả năng mở ra những chân trời vô biên và đem con người đến tột đỉnh của niềm tin mà Chúa bảo đảm rằng điều đó chỉ mạc khải cho những ai yêu mến Người:“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21). Tình yêu là tiền đề cho việc đào sâu hiểu biết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8).
4) Chúa Giêsu tỏ rõ đức tin cần thiết cho ơn cứu độ, là nền tảng của toàn bộ sự huấn luyện Kitô giáo, giáo dục đức tin, chỉnh đốn đức tin, cảnh cáo những người ngu muội và những người lập lờ, và chỉ cho họ nhận ra sự mạnh mẽ phi thường của đức tin
Bằng lời nói và việc làm, Chúa Giêsu cố gắng đem đến cho các tông đồ, cho dân chúng và cho từng cá nhân mà Ngài gặp nền tảng của mọi hoạt động huấn luyện giáo dục đức tin của Ngài. Đây là khía cạnh giá trị đức tin.
Với thái độ như thế, (1) Ngài khẳng định tầm quan trọng của đức tin đối với ơn cứu độ. “Ai tin người ấy được cứu”;(2) Ngài đòi hỏi các tông đồ và khuyên họ rèn luyện đức tin cho mạnh mẽ; (3) Ngài chỉ cho thấy những hoa trái đức tin nhận được; (4) Ngài trách mắng và sửa dạy khi đức tin tỏ ra yếu kém.
1. Chúa Giêsu khẳng định sự cần thiết và giá trị của đức tin
Đức tin là nền tảng cần thiết cho ơn cứu độ: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16).
Chúa Giêsu dạy rằng điều mà Thiên Chúa muốn là đức tin của chúng ta: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến (Ga 6,29). “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
2. Chúa Giêsu giáo dục đức tin bằng lời khuyên răn, sửa dạy, la rầy, ngăm đe, chỉ cho thấy những hoa trái tốt lành
Những lời khuyên bảo, mời gọi, mệnh lệnh tin tưởng của Chúa Giêsu mà Tin Mừng ghi lại nhiều vô số kể. Ngài khuyên bảo bằng sự ôn hòa dịu dàng, tha thiết, nhiệt thành, mạnh mẽ, và đôi khi cũng với sự buồn phiền chịu đựng những người đối nghịch thậm chí đối với cả những bạn hữu của Ngài.
3. Chúa Giêsu khuyên răn một cách rành mạch để các tông đồ tin vào Ngài
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy... Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm”. (Ga 14,1 và 11)
Chúa Giêsu tận dụng những cơ hội thuận tiện để khen ngợi. Sau khi tường thuật những lời đầy tin tưởng của viên sĩ quan, Tin Mừng tiếp: “Đức Giêsu thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: "Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế” (Lc 7,7-9).
4. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chân thành, sửa dạy và trách mắng khi thuận tiện
Khi các tông đồ đánh thức Chúa Giêsu vì biển gầm sóng vỗ, sau khi đã làm biển yên lặng, Chúa Giêsu hỏi họ: “Đức tin anh em ở đâu? (Lc 8,25). Khi các tông đồ lo thiếu bánh, Ngài nói với họ: “Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy?” (Mt 16,8).
Khi các tông đồ hỏi Chúa Giêsu vì sao họ không có khả năng chữa bệnh trừ quỷ cho đứa trẻ bị kinh phong, Ngài đáp: “Tại anh em kém tin” (Mt 17,19).
5. Thái độ của Chúa Giêsu với những người Pharisêu cứng lòng tranh luận với Ngài:
“...Ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21,32).
Với hai mộn đệ trong tâm trạng chán chường thất vọng, Chúa Giêsu nói:“Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!” (Lc 24,25).
Thánh sử Marcô viết rằng Chúa Giêsu sau khi sống lại “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (16,14).
6. Những đặc ân
Để khuyến khích các tông đồ và những người nghe Ngài tăng trưởng niềm tin tưởng nơi Ngài, Chúa Giêsu nhiều lần chỉ cho họ thấy những thiện ích mà họ nhận được: “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được” (Mt 21,22). “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,16).
“Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe" (Mc 16,17-18).
“Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” (Ga 14,12). Chúa Giêsu trả lời các tông đồ khi các ông xin thêm đức tin, Ngài nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,5-6).
7. Lời ngăm đe
Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ khi ngăm đe: “Nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết” (Ga 8,24).
5) Chúa Giêsu biểu lộ và làm cho người ta hiểu con người đã rơi vào bi thảm như thế nào khi chống lại đức tin một cách có ý thức, và như thế cũng làm vô hiệu hoạt động của Thiên Chúa
Những khía cạnh tiêu cực của đức tin, nhìn từ phía con người:
1. Chúa Giêsu không tỏ mình ra cho người độc ác và giả hình
Một ngày nọ, các đầu mục Do Thái tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi xem Người lấy quyền nào mà làm những sự ấy. Thay vì trả lời các ông, Người lại hỏi: vậy thì phép rửa của Gioan đến từ Trời hay từ con người. Họ không biết hay nói đúng hơn là không thể trả lời, bởi vì họ đã không tin vào phép rửa đó, đàng khác họ sợ đụng chạm dân chúng cho nên họ trả lời: “Chúng tôi không biết”. Câu trả lời này không phải là hệ quả của sự không biết, nhưng là thái độ bảo thủ, cố chấp của họ. Vì thế Chúa Giêsu kết án lòng dạ của họ và về sự bất lực không xứng đáng nhận một câu trả lời chất chứa một lời kêu gọi tin tưởng vào Ngài. Ngài nói với họ: “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (Mc 11,27-33).
2. Chúa Giêsu chối bỏ những dấu lạ đối với người nào Ngài không muốn cho hiểu
Đức tin cũng đến với con người qua những dấu chỉ, nơi đó con người đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa bằng khả năng nhận thức siêu nhiên của mình. Mà khi lòng dạ con người độc ác thì những dấu chỉ này không tỏ lộ được gì cả, vì Thiên Chúa không muốn tỏ lộ cho người ấy. Tin Mừng đã nói rõ điều đó: Những người Pharisêu đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: "Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả... ngoài dấu lạ tiên tri Giona” (Mc 8,11-12 và Mt 16,1-4).
Thiên Chúa luôn tỏ rõ thái độ này của Ngài, Ngài giải thích những lý lẽ về sự đui mù nhân loại, những khó khăn đáng kể hoặc sự bất khả thể để dẫn đưa một số người nào đó đến đức tin.
3. Chúa Giêsu chỉ ra một trong những lý lẽ của sự cứng lòng
Gần đến ngày lễ Lều, những người thân mời Chúa Giêsu lên Giêrusalem để họ thấy những việc Người làm mà tin vào Người. Chúa Giêsu không muốn đi vì ở đó dân chúng không tin Người và thậm chí họ còn ghét Người vì Người đã “tố cáo các việc làm xấu xa của họ”.
“Ghét” là trái với “tin tưởng”, quí mến, thiện cảm, khước từ tin tưởng, cho nên họ không tin Chúa Giêsu (Ga 7,2-8).
4. Chúa Giêsu biết người ta không tin vào Ngài
Dịp lễ cung hiến đền thờ, người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu và họ hỏi Người: “Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết” (Ga 10,24). Họ nghĩ chắc trong lòng rằng thế nào Chúa Giêsu cũng nói với họ như đã nói với phụ nữ Samaria, “Đấng Messia là chính là tôi, người đang nói với chị đây” (cf. Ga 4,26), để nhận được sự tán thành và nhiệt huyết tông đồ của họ.
Nhưng mà Chúa Giêsu thấu hiểu lòng trí họ, Ngài đã lột trần sự thật và mạnh mẽ khẳng định: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin” (Ga 10,25).
5. Chúa Giêsu nói đến những nguyên nhân của sự cứng lòng
Chúa Giêsu đã giải thích trong rất nhiều biến cố về những lý do của sự cứng lòng của nhiều người không tin vào lời Ngài nói và những việc Ngài làm: họ không thuộc về đàn chiên của Người, không nghe tiếng của Người, không biết Người, không theo Người. Tắt một lời, họ không ở trong mối tương quan nhân vị yêu thương với Người, họ là những người xa lạ thậm chí chống đối Người.
“Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,25-27).
Chiên “của Người” là những kẻ “biết tiếng Người”, có nghĩa là không chỉ phân biệt giữa tiếng Người với những tiếng khác, nhưng là cảm nhận tiếng của Thiên Chúa, nhờ ân sủng của Ngài, qua những tiếng nói nhân loại, nhận ra tiếng Chúa và ngoan ngoãn đi theo tiếng Ngài.
Để nhận biết Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, không chỉ cần lời công bố từ miệng Người, nhưng còn cần sự gợi hứng của Chúa Cha, và chủ thể sẵn sàng tiếp nhận.
Người Do Thái không được chuẩn bị chấp thuận tin theo Chúa, trái lại họ còn chống lại sự chuẩn bị đó. Thật vậy, sau lời công bố của Chúa Giêsu, thay vì suy xét câu trả lời của Ngài, “họ đã lấy đá ném Ngài” (Ga 10,31). Chúa Giêsu hỏi cho biết vì sao lại ném đá Ngài. Họ đáp: “Vì ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Trong câu trả lời với những đối tượng khác, Chúa Giêsu cũng đã nói, bây giờ Ngài lập lại: “Dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38).
TÓM KẾT
NHỮNG HƯỚNG DẪN HÀNH ĐỘNG CHO CÁC NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU
Từ việc chiêm ngắm và phân tích cách xử sự của Chúa Giêsu như một nhà giáo dục đức tin, chúng ta thu lượm được những hướng dẫn chính yếu cho việc giáo dục đức tin:
1. Đức tin là mối tương quan sống động được thiết lập giữa con người và Chúa Giêsu, và qua Chúa Giêsu, giữa con người với Thiên Chúa. Mối tương quan này cần phải được giáo dục.
2. Chúa Giêsu đã và đang có sáng kiến thiết lập mối tương quan này với con người qua Giáo hội, người bạn thân thiết của Ngài, qua hoạt động cứu thế và qua chính bản thân Ngài.
3. Việc trao ban ơn cứu độ cho con người được ví như việc cấp thuốc cho bệnh nhân hoặc như hành động quẳng dây thừng cho người té giếng: bệnh nhân phải chấp nhận uống thuốc, người té giếng phải nắm và giữ lấy sợi dây.
4. Sự trao tặng này được thông ban qua “những dấu chỉ”, nghĩa là những con người và những sự việc, mặc dù chúng ta không thấy, không nghe, không chạm được, nhưng qua đó chất chứa và tỏ lộ sự hiện diện của Thiên Chúa. Một trong những dấu chỉ lớn nhất là chính Đức Giêsu Kitô, là người và là Thiên Chúa, Đấng mạc khải và cứu độ.
5. Giáo dục đức tin bắt đầu với việc trình bày và học hỏi “dấu chỉ” lớn lao này là chính Đức Giêsu Kitô. Đức tin Kitô giáo mang đậm nét Kitô. Chúa Giêsu Kitô đã khẳng định điều này cho chúng ta qua vô số những bằng chứng hiển nhiên, thường hằng.
6. Chúa Giêsu không bao giờ đề nghị bất cứ ai một hành vi đức tin mà không gắn kết tùy thuộc vào Ngài và vào chứng từ cá nhân của Ngài, Ngài như là chứng nhân và, những sự việc Ngài làm, chứng minh cho Ngài. Ngài luôn đặt mình như là nguồn, trung tâm, cùng đích của toàn bộ những điều đã minh chứng và mạc khải, để rồi, với tình yêu đối với con người, Ngài khơi dậy đức tin, hoặc củng cố và duy trì niềm tin nơi người nào đã tin vào lời Ngài, hoặc người nào vấp ngã hay rơi vào khủng hoảng, thử thách.
7. Sự hiểu biết về Chúa Giêsu một cách sâu sa và hoàn hảo phải được hướng dẫn và thúc đẩy theo 5 chiều kích sau: - Hiểu chính xác về Chúa Giêsu như con người lịch sử (con bác thợ mộc, người công dân, vv.); - Hiểu Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm (Ông tự cho mình là ai?); - Nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu (Thầy là Đấng Kitô); - Hiểu biết và chấp nhận công trình cứu độ của Chúa. - Hiểu biết Chúa Giêsu như là Đấng hằng sống ở trên Trời, trong bí tích Thánh thể, trong Giáo hội.
8. Việc làm cho người ta hiểu về Chúa Giêsu phải đi đôi với sự cổ võ, phát huy tính chủ thể của người được giáo dục đức tin, hai hoạt động này phải tiến hành đồng nhịp: - Phát triển khả năng nhận thức siêu nhiên; - Có đủ tư cách để đọc và hiểu những dấu chỉ, những sứ điệp và những lời mời gọi; - Củng cố và nuôi dưỡng lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu; - Định hướng và thúc đẩy lời đáp trả cá nhân một cách tròn đầy, trung thành và sống động; - Thực hành đối thoại trong cầu nguyện, tuân giữ lề luật, gắn kết với mầu nhiệm và với Giáo hội; - Thái độ chân thành đáp ứng những đòi hỏi phát xuất từ mối liên hệ cá vị với Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ.
9. Đức tin-tương quan cá vị có một sự phát triển tùy theo lứa tuổi và sự biểu lộ của nó tùy theo những tính cách riêng, những ơn gọi và những sứ vụ nhận lãnh. Nhà giáo dục phải biết điều chỉnh và liên hệ hỗ tương với nhau nhờ sự soi sáng, nâng đỡ, sửa dạy, phục hồi cho đến mức tròn đầy của “việc hoán cải nội tâm”. Đức tin sinh ra, lớn lên và phát triển trong một bầu khí tương quan bởi tình yêu, bác ái. Nhà giáo dục đức tin phải yêu để làm chứng và để “diễn tả” tình yêu vĩ đại mà Chúa Giêsu Đấng cứu độ dành cho con người, tình yêu đó phải được học viên hiểu biết, yêu mến và cảm nghiệm. Đức tin- tương quan cá vị chân thực là căn bản của tình yêu – sự mạc khải rõ ràng của Tin Mừng – và vì thế không thể cổ võ đức tin mà không chú ý đến một sự tăng trưởng cá nhân về tình yêu mà chủ thể được thúc đẩy bởi kinh nghiệm về một tình yêu nhưng không đã nhận lãnh. Tình yêu luôn luôn đáp trả bằng tình yêu. Chúa Giêsu gieo tình yêu nơi các môn đệ và những người mà Ngài muốn ban ơn đức tin, vì Ngài biết rằng một tình yêu như thế cần thiết cho sự trưởng thành và diễn tả đức tin đích thực. Ai yêu mến, người ấy làm chứng cho sự thật và là người tự do sẵn sàng đi theo Chúa Giêsu, thậm chí nhờ tình yêu đó, người ấy được giúp đỡ để tin vào chính chứng nhân và những sự thật mà người đó hiện diện để làm chứng. Trong việc giáo dục đức tin Kitô giáo, giáo dục tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô Đấng mạc khải tình yêu có thể đưa học viên đến việc sở hữu một đức tin vững vàng, có khả năng chịu đựng mọi thử thách.
10. Cần có đức tin để dẫn đến ơn cứu độ mà Đấng cứu thế ban tặng. Khi đức tin được biểu lộ như thế thì mới là đức tin đích thực, sự cần thiết đó có thể biểu lộ và hình thành một lực đẩy để dấn thân trong đức tin.
11. Nhà giáo dục đức tin phải nhớ rằng họ không phải là người ban tặng đức tin, mà phải hiểu rằng, đức tin tùy thuộc vào hoạt động giáo dục của Chúa Giêsu, cũng như Ngài đã giáo dục các môn đệ của Ngài. Nhà giáo dục đức tin phải nhận ra rằng họ chỉ là người cộng tác của Thiên Chúa và của con người, trợ giúp cho cuộc gặp gỡ này, họ là người trung gian “sứ vụ” thực hiện bổn phận của mình trong khi tôn trọng cả hai chủ thể chính yếu mà mình có sứ mạng phục vụ. Điều đầu tiên phải quan tâm là cống hiến chứng tá cá nhân mình: “Eritis mihi testes”.
12. Con người cũng có thể khước từ lời kêu gọi của Thiên Chúa. Vì lòng dạ xấu xa bởi lầm lỗi, họ khép lòng lại với Thiên Chúa, họ không “nghe” lời của vị “Mục tử nhân lành”. Lúc ấy, nhà giáo dục không dàn xếp, can thiệp, nhưng cầu nguyện và chờ đợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GIOAN PHAOLÔ II, Catechesi Tradendae (Tông huấn dạy giáo lý), 26/10/1979. NOSENGO G., L’arte educativa di Gesù (Nghệ thuật giáo dục của Chúa Giêsu), Elledici (TO), 2006. THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý, Nxb Phương Đông, Tp.Hồchíminh, 2008. THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN IV, Messaggio al Popolo di Dio (Sứ điệp gửi Dân Chúa), 30/10/1977 UFFICIO CATECHISTICO NAZIONALE, La formazione dei catechisti. Documenti e orientamenti della Conferenza Episcopale Italiana (Huấn luyện giáo lý viên. Tài liệu và những định hướng của Hội đồng Giám mục Ý), Elledici (TO), 2006.
Md Phạm Thúy
[1]G. NOSENGO, L’arte educativa di Gesù (Nghệ thuật giáo dục của Chúa Giêsu), Elledici (TO), 2006, 31. CGS có thể làm điều Ngài đã nói “Ta là Chân lý”, Ngài đã làm trước rồi mới dạy “Anh em hãy học cùng Ta” để rồi “Anh em hãy làm như Thầy đã làm cho anh em”. [2]THƯỢNG HĐGM1977, 1: Giáo lý bao gồm việc giáo dục tuần tự phát triển đức tin, gắn liền trong quá trình trưởng thành không ngừng chính đức tin đó; DGL, 18: dạy giáo lý là giáo dục đức tin cho trẻ nhỏ, thanh niên và người lớn; HDDGL, 48. 51. 56. 57. 69-71: giáo dục thường xuyên về đức tin; HDDGL, 62: Chỉ khi nào xuất phát từ sự trở lại, nghĩa là lưu tâm đến thái độ bên trong của “người sẽ tin”, thì việc dạy giáo lý mới có thể phát triển nhiệm vụ đặc thù của mình là giáo dục đức tin; HDDGL, 148: mục tiêu phương pháp luận của việc dạy giáo lý là giáo dục đức tin. [3]HDDGL, 56. [4]HDDGL, 237 và 238. [5]HDDGL, 244. [6]HDDGL, 240. |
Nguồn tin: giaolyductin
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn