BÀI 5
GIAO TẾ LỊCH SỰLời nói của anh em hằng phải thanh nhã, mặn mà, ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người.(Cl 4, 6)1/9:
Hai người đang nói chuyện với nhau, mà
ta muốn gặp một trong hai người đó,
ta phải xin phép người kia.
2/9:
Người trên phải ân cần lắng nghe khi người dưới muốn nói chuyện với mình, đừng tỏ ra hống hách, bất cần.
3/9: Nên
gọi chính tên của mỗi người, chớ tự đặt biệt danh để gọi họ. Ví dụ: H. khùng, T.què…
4/9: Khi muốn thưa chuyện với người trên thì ta nên
gọi chức vụ của họ. Ví dụ: Thưa ông chủ tịch, thưa bác sĩ…
5/9:
Nói với người trên bao giờ cũng tỏ ra tôn kính, như: Dạ, vâng, thưa không, thưa biết; chứ đừng nói trống: Hả, ừ, biết, không, muốn…hoặc chỉ lắc, gật đầu!
6/9: Khi
ngồi trên xe buýt, … ta thấy có người già, trẻ em, phụ nữ mang thai, người tàn tật, ta nên
nhường chỗ ngay.
7/9: Khi thấy có
người già, trẻ em cần qua đường,
ta sẵn sàng giúp họ.
8/9: Ta phải
ngả mũ (nón) khi chào hỏi ai, hoặc gặp quan tài ngang qua!
9/9:
Không nên đùa giỡn, chọc ghẹo người khác mang tính chất hạ phẩm giá của họ. Ví dụ: “
Chị quá khổ người thế này, sống chi cho chật đất, chật Thiên đàng.”
10/9: Không ưa ai, ta cũng
không được gọi họ là thằng, nó, con mẹ đó… trái lại, luôn lịch sự dựa trên địa vị, tuổi tác người đó mà nói. Cụ thể: ông cụ X, chị Z, bà A, …
Cũng không đối thoại với ai bằng cách xưng hô mày tao, mà nên thân mật gọi nhau bằng anh, chị, em hoặc gọi tên nhau.
11/9: Muốn
bắt tay ai,
người dưới phải đợi người trên đưa tay ra trước.
12/9: Khi
nói chuyện với ai, ta phải
nhìn vào mặt người đang nói.
13/9:
Phải tôn trọng nhau trước tập thể, dù ta quá quen thân với họ, nếu người ấy có chức vụ, ta phải tỏ ra tôn kính, chứ đừng tỏ cử chỉ suồng sã, kiểu cá mè một lứa.
TANG CHẾVui với người vui, khóc với người khóc!(Rm 12, 15)
1/10: Khi đến
thăm người quá cố, ta
không được đùa giỡn, nên nói nhỏ nhẹ vừa nghe.
2/10:
Không lấy lý do canh xác người quá cố để
chơi cờ bạc hay ăn nhậu dức lác.
3/10: Khi quan tài còn ở nhà,
không kèn trống, hát xướng mãi
tới khuya làm hàng xóm mất ngủ.
4/10:
Không nên gào khóc lớn tiếng, kể lể dài dòng, có khi người nghe hiểu lầm ta mượn tiếng khóc để chửi xéo họ.
5/10: Không nên đề bảng “
miễn phúng điếu”, vì Đức Ái là phải biết nhận và biết cho
(x Ga 13, 6t).6/10:
Tạo điều kiện cho người quá cố có quà tặng. Cụ thể thay vì phúng vòng hoa, ta tặng món quà để nhà Hiếu có điều kiện chia sẻ. Thí dụ: gởi cha Sở thưởng cho em nào học giáo lý giỏi, hoặc chia cho người túng thiếu. Nếu ta bắt chước thói đời chỉ phúng vòng hoa, thì không tạo điều kiện cho người quá cố trả lời khi tới cửa Trời Chúa sẽ hỏi: “
Sống trên đời, ngươi có chia sẻ không?”
(x Mt 25, 31-46) Phúng vòng hoa sinh nhiều bất lợi:
- Mua vất vả tốn kém, làm phiền nhà hiếu không có người bê bông, không có nơi đặt.
- Người nghèo nhìn thấy xót xa phận mình.
- Thua lương dân, khi đưa quan tài ra nghĩa trang, họ còn rải quà dọc đường cho ma đói ăn, còn ta không biết chia cho người đói ăn!
7/10: Khi
đến nhà Hiếu thăm viếng người quá cố và cầu nguyện cho họ, ta phải bỏ hẳn kiểu nói của nhiều người không có đức tin. Thí dụ: Không được nói: “
nhà héo”, mà phải nói “
nhà Hiếu”;
không nói “
Đây là một mất mát vô cùng to lớn,
không gì bù đắp lại được!” Nếu nói như thế là nghịch đức tin Kitô giáo, vì giáo lý Công Giáo dạy: Chết là “
sinh thì”, nghĩa là
thời gian sống, nhất là được Chúa đưa về Thiên đàng sống hạnh phúc với Chúa và các thánh. Biết đâu lúc đó Chúa đang cho các Thiên thần đón rước linh hồn người quá cố về Trời, thì Ngài lại nghe người ta đang rên: “
Mất mát to lớn”. Chắc chắn Chúa sẽ bảo các Thiên thần ngưng đưa linh hồn ấy về Trời, bởi vì Chúa đã nói: “
Ai tin làm sao, thì họ sẽ được như vậy”
(Mt 9, 29).Vậy ta hãy cầu nguyện như Hội Thánh đã dạy trong nghi thức thăm viếng người quá cố: “
Lạy Chúa, chính kẻ ra đi hôm nay lại là người quy tụ chúng con lại, chúng con sống mỗi người mỗi ngả, vì công ăn việc làm bận bịu riêng tư, nay chúng con bỏ lại tất cả, mọi người đến đây cùng hợp với Cha, xin chia sớt nỗi nhớ nhung người đi trước kẻ đi sau tiến về Nhà Cha trên trời” (x Lời Cầu Kết Thúc Khi Thăm Viếng số d).
ĐIỆN THOẠI Ăn nói dịu dàng thì tăng thêm bạn hữu, phát biểu dễ thương thì tăng thêm lời thân ái! (Hc 6, 5)
1/11:
Khi điện thoại reo, ta nhấc máy lên và nói: “
A-lô, tôi là A xin nghe.”
2/11:
Nếu ta gọi đi, ta hỏi: “
Xin lỗi, đây có phải là nhà ông (bà) A không ạ?
Xin cho tôi được gặp ông (bà) A… tôi là B ở Đồng Nai…”
3/11: Trong trường hợp
nghe đầu dây bên kia bảo ta lầm số, thì ta xin lỗi và đọc lại số điện thoại ta đã gọi đi, để người nghe biết là ta gọi đúng hay lầm! Đợi trả lời, rồi nói: “
Xin cám ơn.”
4/11: Khi
nhấc điện thoại lên nghe, ta biết rõ người muốn nói chuyện với mình, thì chào người đó ngay.
5/11: Nếu
người gọi đến không gặp đối tượng họ cần, thì ta xin họ để lại lời nhắn, hay số điện thoại.
6/11:
Cuối câu chuyện nên kết thúc bằng: “
Xin chào.”
7/11: Nếu ta
nghe điện thoại mà bị
mất điện đột xuất, thì ta nên gọi lại cho họ ngay sau khi có điện, xin lỗi họ, và nói rõ lý do.
8/11:
Khi gọi điện thoại nói với người trên. Ta nên khiêm tốn nói, ví dụ: Thưa Đức cha (cha Sở…), con biết Đức Cha quá bận, con xin làm phiền thưa với Đức Cha một phút được không ạ? Bạn nên nhớ rằng cách tiếp xúc của bạn phải tỏa ra “
hương thơm của Đức Ki-tô giữa những người được cứu độ và giữa kẻ bị hư đi”
(2Cr 2,15).