Một dải đất hình chữ S đã từng mang nhiều quốc hiệu khác nhau, từ Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Ðại Cồ Việt, Ðại Việt, Ðại Ngu, Việt Nam, cho đến Ðại Nam, rồi trở lại Việt Nam. Qua bao thăng trầm của lịch sử và những nhịp sống năng động, cần cù, chịu khó, gắn bó, hoà đồng, khiêm nhường, nhân hậu, bác ái, vị tha, công bằng của các dân tộc Việt đã tạo nên bản sắc văn hoá và các dòng tín ngưỡng đa dạng riêng cho mình.
Từ những con vật, cỏ cây, hoa lá, rau quả, hiện tượng gió bão, mây mưa, sấm chóp, cho đến khái niệm về con người có phần thể xác và phần linh hồn đã trở thành hình ảnh gần gũi trong cuộc sống của người dân Việt xưa, mà tạo nên những chữ cơ bản trong nền tín ngưỡng nguyên thủy được biết qua những chữ như: Thần Lúa, Thần mây, Thần mưa, Thần gió, Thần sét, Thần rồng, Thần rắn, Thần núi, Thần sông, Thần Biển...
Qua niềm tin, tôn thờ đa thần trên mà sinh ra nhiều nghi thức, lễ hội cúng bái, ngưỡng vọng thần linh, nhằm mục đích cầu mong giúp đỡ cho mình cũng như cho người được bình an ... Rồi từ từ đi sâu vào lòng dân tộc biến thành dòng tín ngưỡng dân gian.
Nếu Tín ngưỡng dân gian được xem như là một trong những yếu tố của văn hóa tinh thần, thì tục thờ cúng tổ tiên hình như đã trở thành một Đạo. Những câu ca dao tục ngữ Việt có ghi: "Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước thì phải nhớ nguồn" hay "Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Tập quán Thờ cúng Tổ tiên đã đi vào tâm thức của người Việt từ xưa cho đến ngày nay là điều không chối cãi được. Đạo thờ tổ tiên là một con đường hay cách sống dẫn dắt dân gian từ lòng cung kính, thương mến đối với các bậc ông bà cha mẹ, bằng chữ Tâm qua hành động của chữ Hiếu.
Theo Hán Việt chữ Hiếu 孝 là chữ ghép từ: 耂 + 子. "Lão" trên và "Tử" dưới của chữ Hiếu 孝 là biểu trưng cho mối quan hệ "Trước", "Sau" qua chữ Tôn 尊, rồi trở thành một trong những đức tính hay đẹp của con người. Nếu chữ Đạo 道 được xem là hàm nghĩa ở bên ngoài của con người, thì chữ Đức 德 cũng sẽ là một phẩm hạnh chính nằm ở bên trong không thiếu được.
Chữ Đạo 道 là chữ ghép từ: Chữ Xước 辵 + chữ Thủ 首 hay 辶 + 首, nó có 12 nét.
Chữ Xước 辵 có 7 nét cũng là bộ Xước 辵, mang số 162 trong 214 số thứ tự của bộ Thủ. Nó có nghĩa: Chợt bước đi chợt dừng lại. Nguyên ngữ của chữ Xước 辵 = Chữ 彳Xích (bước chân trái) + chữ Chỉ 止 (dừng lại).
Chữ Thủ 首 có 9 nét, cũng là bộ Thủ 首, mang số 185 trong 214 số thứ tự của bộ Thủ. Nó có nghĩa: Đầu, đầu tiên, người dẫn đầu.
Chữ Đạo 道 được hiểu như một con đường, con đường đời của một cá nhân.
Chữ Đức 德, có 15 nét, là chữ ghép từ: Chữ 彳Xích nằm phía bên trái. Chữ Trực 直 nằm ở trên bên phải, là hình dạng con mắt nhìn thẳng. Ở dưới với chữ Tâm 心, biểu trưng cho tấm lòng. Như vậy qua phần kết ý của từng chữ trên để hội ý thành, thì chữ Đức 德 có nghĩa lòng đi chính trực và hai chữ Đạo Đức 道 德 đi chung với nhau được hiểu như là con đường mà lòng đi chính trực, rồi từ đó người ta thêm cho nó nhiều nghĩa phụ khác nữa.
Một xã hội thiếu hai chữ Đạo Đức 道 德 thì nền tảng xây dựng của nó không có những ý thức để phân biệt giữa cái gì nên làm và không nên làm trong cách cư xử giữa con người và con người. Ngoài đạo đức và tình thương, "Trí tuệ " cũng là phần ứng dụng không thể nào thiếu được.
Từ dạng phát triển truyền miệng cho đến khi có chữ viết của ngày hôm nay. Ngoài chữ Đạo thờ ông bà tổ tiên ra, chữ Đạo của Việt Nam theo dòng lịch sử lại có thêm những chữ như : Phật, Thiên Chúa, Tin lành, Cao Đài, Hòa hảo, Hồi, Bà La Môn…
Những dòng tín ngưỡng này là những yếu tố kết hợp mang lại sự phong phú giúp cho tâm, thấy, biết, nhận định, được ý nghĩa tốt đẹp của sự sống, bằng nhiều cách biết sống về đạo đức qua những cái nhìn khác nhau trong việc thờ phụng của Văn Hóa Tín Ngưỡng Việt Nam.
Kính bút,
TS Huệ Dân