Đạo đức là thước đo thang giá trị của con người mọi thời đại. Những giá trị đạo đức không bao giờ thay đổi, có chăng là chỉ thay đổi cách nhìn về giá trị ấy. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ nơi cuộc sống hiện đại. Cuộc sống hiện đại đã làm cho con người có những cách nhìn mới về những giá trị đạo đức. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tân tiến mang lại cho con người nhiều tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên, nó cũng mang lại cho con người nhiều nỗi phiền toái, và còn lấy mất khỏi con người nhiều giá trị cao đẹp – vốn là những điều quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lý tưởng sống của con người.
Những phương tiện khoa học kỹ thuật vốn không tốt cũng không xấu. Nó tốt hay xấu là phụ thuộc vào người sử dụng nó. Thế nhưng, những phương tiện khoa học kỹ thuật, hay nói một cách nôm na hơn là cuộc sống hiện đại đã làm cho con người, nhất là những người trẻ, có những thay đổi cách nhìn về giá trị đạo đức.
Giới trẻ ngày nay có cách nhìn về cuộc sống, con người, thời đại và về những giá trị đạo đức khác những người xưa nhiều. Đạo đức truyền thống đối với họ không phải là điều bắt buộc nữa. Thứ đạo đức đó đối với họ đã trở thành những món đồ cổ rồi. Phải chăng bây giờ lớp trẻ đang sống thiếu đạo đức? Một vấn nạn không dễ trả lời.
Những giá trị cao đẹp vốn đã tồn tại bao đời, đang thiếu vắng nơi một bộ phận các bạn trẻ hôm nay. Là con người hoài vọng cho một tương lai sáng lạn, một đất nước giàu và đẹp, cho một tương lai nhân loại tươi sáng hơn, ai lại không băn khoăn, ưu tư trước những thách đố của thời đại, trong đó có vấn đề giá trị đạo đức nơi người trẻ, hay nói một cách thực tế hơn là nhân cách của giới trẻ.
Hằng ngày, chúng ta có thể xem thấy hay đọc được trên các phương tiện thông tin đại chúng những mảnh đời tươi trẻ đang sa vào vũng lầy của tội phạm, tiêm chích… rồi rơi vào tuyệt vọng. Mang lấy kiếp người, không ai tránh khỏi đau khổ, nhưng có những cái đau đáng tôn trọng, có những cái đau đáng thương, có những cái đau để rèn luyện nhân đức con người và cũng có những cái đau chỉ mang lại thêm đau khổ. Những cái đau đớn do ngoại cảnh đem đến cho ta không nói làm gì, điều đáng nói ở đây là có những cái đau mình biết là do mình tạo nên, nhưng vẫn lao vào đó để chuốc lấy cũng như mang đến cho người khác thì thật đáng trách. Phải làm gì đây để quét sạch những cọng rác làm dơ bẩn sân chơi của cuộc đời?
Dòng đời vẫn ngược xuôi tất bật, ngồi yên một mình trong phòng để suy nghĩ cũng không xong, mà nếu dạo quanh phố phường một vòng thì thấy toàn là những “điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Nhìn những người trẻ sống vất vưởng bên dòng đời, tôi cảm thấy ưu tư, xót xa cho những số phận phũ phàng tang thương đó. Đây là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu này: một là để hiểu hơn thực trạng của đời sống người trẻ; hai là để hun nóng những ưu tư trong con tim mình nhằm có một hướng đi cho tương lai dâng hiến.
Đạo đức ngày nay bao gồm nhiều lĩnh vực, chứ không gói gọn trong cách học làm người: Đạo đức sinh học, đạo đức trong kinh doanh, đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nhà trường, đạo đức trong tôn giáo… mỗi một trong những nền đạo đức này nói lên một khía cạnh nào đó của cuộc sống con người. Giá trị của chúng khác nhau, tuy nhiên, chúng có một điểm chung là con người. Giá trị đạo đức thực là cái bảo đảm cho một cuộc sống hạnh phúc hơn, sung mãn hơn.
“Giá trị đạo đức nơi người trẻ hôm nay” không phải là một đề tài mới mẻ đối với quần chúng, vì thực tế đã có nhiều người viết và viết đến nơi đến chốn. Trong phạm vi và giới hạn của bài tiểu luận này, người viết không có tham vọng trình bày một cách rốt ráo mọi góc cạnh của đạo đức cũng như những thay đổi về giá trị đạo đức nơi người trẻ hôm nay; người viết chỉ mong, qua tiểu luận này, nói lên những suy tư của mình về hiện tình sống của người trẻ cũng như là để tìm hiểu sâu hơn những gì đang diễn ra nơi họ. I. ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 1. Đạo đức là gì ?
Để hiểu đạo đức là gì, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu từ nguyên của nó đã. Trong tiếng Việt, nghĩa của từ “đạo đức” và “luân lý” gần giống nhau. Để hiểu rõ nội dung của đạo đức cần đi tìm ý nghĩa của từ đạo đức và luân lý. Theo “Hán – Việt Từ điển” của Đào Duy Anh, đạo đức bao gồm “Nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức – Cái lý pháp người ta nên noi theo”. (Đào Duy Anh, 1957) Theo Từ điển Tiếng Việt thì từ “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” (Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm, 1999). Còn từ “luân lý” có nghĩa là “những quy tắc về quan hệ đạo đức giữa người với người trong xã hội” (Minh Tân-Thanh Nghi-Xuân Lãm, 1999).
Có lẽ nếu cứ viện dẫn tiếng Việt không thôi thì chưa rốt ráo lắm, chúng ta cần tìm hiểu tiếng nước ngoài xem. Theo từ điển từ nguyên thì “éthique” (tiếng Pháp) có nghĩa là đạo đức học hay luân lý học, còn tiếng Latin là “ethicus”. Từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “êthikos”, “êthikê”, “êthos” có nghĩa là phong tục, tập quán. Còn từ “morale” (tiếng Pháp) có nghĩa là luân lý học. Từ này bắt nguồn từ tiếng Latin là “mores”, có nghĩa là những thói quen (moeurs) (Larousse, 1971). Trong tiếng Anh, từ “ethics” (ethos: phong tục): “Đạo đức học hay luân lý học là môn học nghiên cứu tiêu chuẩn và nguyên tắc để xác định giá trị hành vi con người là tốt hoặc xấu” (Thuật ngữ Thần học Anh – Việt, 2002). Còn từ “moral” là “những nguyên tắc quyết định điều tốt trong quan hệ đạo đức giữa người với người” (Ibid.).
Theo “Từ điển Phật học Huệ Quang” của Thích Minh Cảnh, “đạo đức” là “nguyên lý thiện ác, chánh tà có liên quan đến hành vi của nhân loại” (Thích Minh Cảnh, ?). Hữu Ngọc - Dương Phú Hiếp - Lê Hữu thì quan niệm “đạo đức hay luân lý là một trong những hình thái sớm nhất của xã hội, bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng”. (Hữu Ngọc - Dương Phú Hiếp - Lê Hữu, 1987, tr. 145). Cũng những tác giả này, họ định nghĩa về môn học này như sau: “Đạo đức học hay luân lý học là khoa học triết học nghiên cứu đạo đức - làm rõ vai trò nguồn gốc và sự phát triển của đạo đức trong lịch sử cũng như cơ sở lý luận của những hệ thống đạo đức cụ thể” (Ibid.).
2. Đạo đức theo quan niệm của các triết gia
Đạo đức là một đề tài rất thời sự và cũng rất quan trọng đối với cuộc sống con người. Theo quan niệm của Démocrite, “đạo đức là đi tìm khoái lạc vì sự thiện là khoái lạc, còn sự ác là đau khổ. Để mang lại sự thiện thực sự, khoái lạc phải là sự hoan hỉ dài và trường tồn”.[1]
Socrate quan niệm rằng “con người có thể tìm hiểu những điều thuộc đời sống thực tiễn, để tìm thấy những chân lý khách quan về một nền đạo đức thực tiễn. Ông tin vào nhân đức, tin vào công lý và coi đó là cách sống hợp với ý muốn thần thánh”.[2] Con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc - điều mà con người luôn khao khát tìm kiếm - khi con người sống đúng đắn, nghĩa là sống hợp với những quy tắc đạo đức; còn nếu không, con người chỉ chuốc lấy khổ nhục. Vì lý do đó, ông thà chịu chết chứ không đi ngược lại với chân lý - điều ông coi là quy tắc đạo đức phải sống. Một con người sống đạo đức, theo Socrate, phải là một con người có tri thức (khôn ngoan), sống điều độ, sống có kỷ luật (can đảm), có lòng kiên trì và biết làm việc nữa.
Platon đưa ra một hình ảnh điển hình để nói về đời sống đạo đức như sau:
“Con người là một chiếc xe song mã, với một con trắng và một con ngựa đen; con ngựa trắng thì đẹp đẽ, khoẻ mạnh, nó yêu chuộng sự khôn ngoan và điều độ; ngược lại, con ngựa đen thì xấu xí và bướng bỉnh, nó cần tới những đòn roi mạnh mẽ có thể đi theo sự điều khiển của người đánh xe. Hai con ngựa đó, mỗi con kéo về một ngả, nên việc điều khiển cỗ xe này thật là khó khăn. Nếu trị được con ngựa đen, thì con ngựa trắng sẽ có thể kéo cỗ xe tiến bước theo đoàn xe của thần thánh, vươn lên tới thế giới ý tưởng để chiêm ngưỡng những thực tại vĩnh cửu, chân thực. Nhưng nếu không trị được con ngựa đen, thì cỗ xe sẽ lê lết trong vật giới, sa lầy vào những sự vật của trần gian, đầy những ảo ảnh không chân thật”.[3]
Theo ý tưởng của Platon, con người phải có khôn ngoan và biết sống điều độ, nghĩa là phải biết làm chủ được bản thân mình để đạt được hạnh phúc. Đạo đức của Platon là những yếu tố như: hạnh phúc, chính trực và chiêm ngưỡng.
Trong sự nghiệp trước tác, Aristote không bỏ sót một vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc sống con người, đó là luân lý. Đối với ông, luân lý đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Muốn sống hạnh phúc, con người phải sống có nhân đức. Nhân đức là một thói quen cần được tập luyện thường xuyên chứ không phải là nhất thời. Nhân đức là thái độ quân bình hay trung dung. Ông phân chia nhân đức ra làm 2 loại là: nhân đức tinh thần gồm: óc phê phán, bình luận hợp lý hợp cảnh, tinh thần trật tự; và nhân đức luân lý: là những tập quán tốt giúp con người giữ mực chiết trung giữa thái quá và bất cập. 3. Vai trò đạo đức trong cuộc sống con người
Giả như con người không có nền đạo đức nào làm chuẩn mực để hướng dẫn những hành vi của mình thì con người cũng giống như bao nhiêu sinh vật khác vậy, không hơn không kém. Con người khác với con vật là ở chỗ, con người có tình yêu thương được thể hiện trong quan hệ giữa người với người. Những tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi giúp con người sống đúng với hữu thể có lý trí và linh hồn. Một xã hội mà trong đó con người không tôn trọng nhau, nghĩa là không được xây dựng trên những giá trị đạo đức thì xã hội ấy không còn là xã hội đúng như tên gọi của nó nữa. Một xã hội trong đó mọi người tôn trọng nhau, cư xử với nhau có trên có dưới thì xã hội đó mới thực là xã hội của con người.
“Đạo đức là cốt ở sống hợp với bản tính của con người. Các triết gia không đồng ý với nhau, khi cần phải định bản tính của con người là gì, điều này tuỳ thuộc vào quan niệm siêu hình của từng môn phái; nhưng tất cả đều đồng ý mà quả quyết rằng đời sống đạo đức là cốt ở sự thực hiện cứu cánh của con người đúng theo chân bản tính của nó. Như thế, đạo đức không phải là gò ép con người và làm cho nó suy giảm, trái lại, đạo đức là làm nảy nở tất cả những gì có giá trị nơi con người. Vậy đạo đức rất là quan hệ; không có đạo đức, người ta có thể làm một kỹ sư hay một thương gia tài giỏi, nhưng không có đạo đức thì không thể trở nên một con người hoàn hảo và không thể phát triển tất cả những gì cao quý tốt đẹp của bản thân chúng ta”.[4]
Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, ngay từ giây phút được dựng nên, con người đã được phú ban cho “cái đạo” và “cái đức” để khi sinh ra trên trần gian là biết sống đúng với phẩm giá rồi. Đạo đức có nhiều cấp bậc, nghĩa là nhiều tiêu chuẩn để đánh giá những hành vi nhân linh của con người; có thứ đạo đức xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng, đạo đức của người thầy thuốc, đạo đức của người làm nghề dạy học, đạo đức của người tu trì, đạo đức Công giáo, đạo đức Tin lành, đạo đức Nho giáo, đạo đức thương mại… mỗi một lĩnh vực đều có những tiêu chuẩn riêng để giới hạn hay mở rộng phạm vi hoạt động của con người nhằm hạn chế những sai phạm của con người trong lĩnh vực đó. Không ai phủ nhận vai trò đạo đức. Đạo đức nằm trong những phong tục tập quán của các dân tộc, trong luật pháp của các quốc gia, trong nền văn hoá của nhân loại. Không một nền đạo đức nào giống đạo đức nào, tuy nhiên tất cả mọi nền đạo đức đều hướng con người đến việc làm lành lánh dữ.
“Đời sống luân lý là một hiện tượng phổ quát. Không một dân tộc nào không có đời sống luân lý; không có một con người nào lại hoàn toàn không có cảm thức luân lý, cho dù các kiểu thứ để thực hiện luân lý có khác nhau. Như thế, người ta có thể thấy được rằng cảm thức về thiện-ác là cái có thực, có trong tất cả mọi người, có ở mọi thời và mọi nơi” (Nguyễn Trọng Viễn, Triết học Nhập môn, Học viện Đaminh, 1995, tr. 104-105). 4. Đạo đức trong Nho giáo
Đạo đức Khổng - Mạnh không những ảnh hưởng chỉ riêng ở Trung Hoa, mà còn ảnh hưởng lên nhiều nước Á Châu, trong đó có Việt Nam chúng ta. Nhân dân Việt Nam sống dưới ách thống trị phong kiến phương bắc ngót ngàn năm; cho nên, nền văn hoá của dân tộc ta chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa, hay nói rõ hơn đạo đức của con người Việt mang đậm phong cách của người Trung Hoa. Khổng Tử nói: “Ta lý tưởng vào đạo, giữ vững vào đức, nương cậy vào nhân” (Chí vu đạo, cứ vu đức, y vu nhân - Luận Ngữ, Hình Nhi). “Ông cho rằng đạo là lý tưởng và chuẩn tắc hành vi cao nhất của chúng ta. Đức là sự thể hiện trong hành vi cụ thể. Nhân là gốc của đạo đức. Mạnh Tử tiến thêm một bước, cụ thể hoá nó thành Tứ đức (Nhân, lễ, nghĩa, trí) và ‘Ngũ luân’ (Quân thần - vua tôi, phụ tử - cha con, huynh đệ - anh em, phu phụ - vợ chồng, bằng hữu - bạn bè). Quan niệm đạo đức Khổng – Mạnh đều gợi mở từ sự tự giác trong nội tâm của người ta. Tuân Tử thì lấy Lễ làm gốc cho đạo đức, chủ trương tu thân bằng lễ (dĩ lễ tu thân), làm sáng chính trị bằng nghĩa (dĩ nghĩa minh chính). Đổng Trọng Thư thì căn cứ vào đấy để xây dựng thành đạo đức luân lý ý trời (thiên ý) làm trung tâm, lấy tam cương ngũ thường làm nội dung”.[5]
Có thể nói được rằng nền luân lý Việt Nam được xây dựng trên những nền tảng của Nho giáo, và nó có thế giá trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Những giá trị ấy có năng lực hướng dẫn con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của đạo đức Nho giáo trong những anh hùng hào kiệt con Rồng cháu Tiên như Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung… 5. Đạo đức trong Giáo hội Công giáo
Đọc sách Sáng Thế, từ ngay những chương đầu, chúng ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng của một nền đạo đức. Sách Sáng Thế trình thuật chuyện Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Người. Con người được sống trong tình trạng ân sủng dồi dào, được ban cho quyền làm chủ muôn loài. Con người được sử dụng mọi thứ, nhưng có một thứ Thiên Chúa cấm con người không được sờ mó tới, đó là không được ăn quả của “cây biết lành biết dữ”. Phải chăng đây là đạo đức mà Thiên Chúa muốn con người phải sống theo? Vì theo định nghĩa, đạo đức là những tiêu chuẩn để thúc giục con người làm lành lánh dữ, là những nguyên tắc hướng dẫn hành vi của con người. Thế nhưng con người đã không sống theo thứ đạo đức mà Thiên Chúa đã ban cho con người, cho nên con người đã làm điều ác chống lại đạo đức. Đạo đức đảm bảo cho con người một cuộc sống hạnh phúc. Con người đã không sống theo đạo đức đó, vì thế con người phải chịu đau khổ thôi.
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là con người được phú ban cho một nguyên lý tự nhiên gọi là “đạo” và tiếng nói sâu thẳm hay lương tâm gọi là “đức”. Nhưng lương tâm con người đã bị tội lỗi làm cho méo mó. Để điều chỉnh lại những sai lệch nơi con người, Thiên Chúa đã dùng Môsê làm trung gian để truyền cho con người phải làm điều này và không được làm điều kia, đó là luật luân lý hay mười giới răn. Mười điều luật này là quy phạm đạo đức hướng dẫn hành động của con người nhằm giúp con người đạt đến những giá trị siêu việt hay cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
Giáo hội Công giáo, tiếp nối truyền thống Cựu Ước, rất tôn trọng những gì đã được ghi chép trong sách luật; đồng thời, nhằm thích nghi với những điều kiện sống hiện tại, Giáo Hội còn đưa ra những quy tắc khác gọi là giáo luật để giúp con người đạt đến tình trạng tự do của con cái Chúa chứ không phải là con cái của nô lệ. Đạo đức đóng vai trò rất quan trọng đời sống Giáo Hội. Nếu như không có luật Chúa hướng dẫn và giáo luật chi phối, con người dễ đi đến tự do phóng túng, đánh mất mình. Phải có thái độ nào với nền luân lý Công giáo? Là tín hữu, chúng ta cần có thái độ tha thiết với luật Chúa trong đức tin vào Chúa Kitô để đạt được những điều Chúa đã hứa ban cho chúng ta.
“Thiên Chúa giáo nhận có Thượng Đế là Chúa tể càn khôn, Ngài đã dựng nên vạn vật và làm chủ muôn loài. Là tình yêu vô hạn, Ngài đã làm người vì yêu loài người và cũng để được loài người kính mến và thờ phụng Ngài trở lại, vì thế, Ngài đã dựng nên loài người có lý trí và tự do, có lý trí để phân biệt thiện ác và có tự do để chọn điều lành lánh điều dữ.
Vậy sống đạo đức là vâng theo thánh ý Chúa mà lý trí chúng ta có thể tìm biết được. Sống theo ý Chúa tức là tuân giữ lề luật của Chúa mà tất cả lề luật của Chúa đều tóm tắt trong sự mến Chúa và yêu người, mến Chúa vì Chúa là cha chúng ta, yêu người vì người là hình ảnh của Chúa và là anh em của chúng ta”.[6]
Chúa Giêsu xuống thế không phải là để bãi bỏ những điều luật đã được lưu truyền mà là để kiện toàn. Người đã mạnh mẽ lên án những ai sống cậy thế vào luật lệ, sống hình thức bề ngoài, điển hình cho tầng lớp này là nhóm Pharisêu. Họ được coi là những người sống vì luật. Cái gì họ cũng đưa luật ra áp dụng, đến nỗi họ đã biến luật thành một gánh nặng chất lên vai người dân. Họ đã làm cho luật trở thành một cái ách cùm chân con người lại. Chúa Giêsu đến đả phá thái độ sống vị luật đó. Người chủ trương luật yêu thương, luật mang lại tự do thực sự cho con người, vì ách của Người thì êm ái, và gánh của Người thì nhẹ nhàng (x. Mt 11,30).
Thánh Phaolô nhiều lần nói về vai trò của lề luật và tự do của con người. Chúng ta nên trích ra đây vài đoạn để thấy được tư tưởng của thánh nhân:
“Thưa anh em - tôi nói đây là nói với những người biết Luật - anh em không biết điều này sao: Luật chỉ có hiệu lực đối với người ta, bao lâu người ta còn sống? Tỉ dụ như người đàn bà có chồng, thì luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa. Vậy bao lâu chồng còn sống, mà vợ đi lấy người khác, thì sẽ bị gọi là kẻ ngoại tình. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ được tự do không phải giữ luật đó nữa, và có đi lấy người khác, cũng không phải là ngoại tình. Đối với anh em cũng thế. Bởi được liên kết với thân thể Đức Kitô, anh em đã chết đối với Luật Môsê. Giờ đây, anh em thuộc về một người khác, tức là thuộc về Đấng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết, để chúng ta sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa. Vì trước đây, khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối, thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết. Nhưng nay, chúng ta không còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm chúng ta. Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của Lề Luật. Vậy phải nói sao? Lề Luật là tội chăng? Không phải thế! Nhưng tôi đã chẳng biết tội là gì nếu không có Lề Luật. Thật vậy, tôi đã chẳng biết ham muốn là gì, nếu Luật không dạy: Ngươi không được ham muốn. Tội đã thừa cơ, dùng điều răn mà làm nảy sinh trong tôi đủ thứ ham muốn. Thật vậy, không có Lề Luật thì tội đã chết rồi. Xưa kia, không có Luật thì tôi sống; nhưng từ khi có điều răn thì tội bắt đầu sống, còn tôi thì chết. Thành thử điều răn lẽ ra phải đưa đến sự sống, lại dẫn tôi đến chỗ chết. Quả thế, tội đã thừa cơ, dùng điều răn để quyến rũ tôi và cũng dùng điều răn đó để giết tôi. Như vậy, Lề Luật là thánh, và điều răn cũng là thánh, đúng và tốt. Vậy phải chăng điều tốt lại đã gây nên cái chết cho tôi? Không phải thế! Nhưng chính tội đã dùng điều tốt mà gây nên cái chết cho tôi: như vậy, tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,1-13).
“Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích” (Gl 2,19-21).
Những điều thánh nhân đã nói trên cho chúng ta thấy rõ vai trò của lề luật đối với người Kitô hữu rồi, chúng ta không cần nói thêm nữa. II. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC NƠI NGƯỜI TRẺ HÔM NAY 1. Giá trị đạo đức
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu từ ngữ giá trị đã, rồi sau đó chúng ta sẽ nói đến giá trị đạo đức. Theo từ điển Tiếng Việt, “giá trị là cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng về một mặt nào đó” (Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm, 1999). Còn theo tác giả J.A. Hardon:
Giá trị là cái làm cho một vật trở nên đáng ao ước hay đáng giá. Chữ giá trị nhấn mạnh tới khía cạnh chủ quan và tương đối của sự vật nhiều hơn khía cạnh khách quan và tuyệt đối. Nó không chỉ ra sự tốt lành nội tại của một vật mà đúng hơn cho thấy vật đó được con người đánh giá như thế nào; nó không chỉ sự hoàn hảo nội tại của một vật mà đúng hơn cho thấy chỗ đứng của vật đó trong thứ tự các sự vật, quen gọi là thang giá trị. Từ ngữ “giá trị” được các nền triết học luân lý chủ quan và tương đối thích dùng hơn chữ “tốt”. Các Kitô hữu cũng có thể sử dụng từ ngữ ấy, miễn là trong từ đó phải hàm chứa khái niệm về một tiêu chuẩn khách quan.[1]
Từ đây, chúng ta có thể suy ra, giá trị đạo đức là những phẩm chất làm cho con người tốt đẹp, sống có ý nghĩa.
Giới trẻ là tương lai của Giáo Hội và của nhân loại. Đó là câu khẳng định nhiều người đã biết. Nhưng đối diện với thực tế thì ai cũng thấy lo lắng cho tương lai ấy. Liệu nó có tốt đẹp như người ta tưởng không? Còn cứ như thực tế hiện nay thì nhân loại sẽ đi tới đâu, khi giới trẻ sống thực dụng chỉ chạy theo những giá trị vật chất, còn giá trị tinh thần thì hơi sức đâu nữa mà tìm kiếm. Họ hình như không có những vấn nạn hiện sinh: Tại sao tôi ra đời, tôi ra đời để làm gì, đâu là giá trị của cuộc sống… Họ đang sống thiếu lý tưởng, thiếu tương lai.
Nếu điểm qua lịch sử trong mấy chục năm trở lại đây, chúng ta sẽ thấy được những thay đổi về lối sống nơi người trẻ. Cũng một giá trị sự việc ấy, nhưng những người trẻ vào những thập niên 50 hay 60 của thế kỷ XX thì nghĩ theo một cách; còn những người trẻ hôm nay thì nghĩ theo cách khác. Lối tiếp cận của người trẻ ngày xưa cũng khác ngày nay nhiều. Tại sao lại có những sự thay đổi trong cách nhìn vấn đề như thế? Nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi đó? Thay đổi là quy luật của lịch sử và phát triển, không thay đổi là tụt hậu, nhưng phải thay đổi như thế nào lại là chuyện khác. Con người ngày nay chỉ chú trọng đến những vấn đề phát triển kinh tế mà không quan tâm đến vấn đề phát triển toàn diện con người. Đó cũng là thách đố cho con người ngày nay khi đang đối mặt với bao điều nhức nhối như ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, chiến tranh, buôn bán và khai thác phụ nữ, trẻ em… Nhìn vào thực tế, ta thấy được những hậu quả do công cuộc phát triển, do lối giáo dục từ chương, nhồi sọ, và do cơ chế quản lý, đó là một lối sống buông thả, gian lận trong thương trường, hưởng thụ quá độ… 2. Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng thay đổi về lối sống
Trong giới hạn của bài tiểu luận này, người viết không dám mở rộng ra nhiều vấn đề mà chỉ muốn tìm hiểu một số khía cạnh trong quá trình biến đổi xã hội và những thay đổi trong quan niệm về giá trị đạo đức nơi người trẻ. Đã có nhiều người nói về tình trạng thay đổi cách nhìn về đạo đức nơi người trẻ; tuy nhiên, mỗi người viết dưới một khía cạnh khác nhau.
2.1. Thay đổi cơ cấu gia đình
Gia đình đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Gia đình là ngôi trường đầu tiên của con người, mà từ đó những đứa trẻ học được những nhân đức làm người. Từ khi cơ cấu kinh tế có sự thay đổi thì gia đình cũng có sự thay đổi. Xã hội có tác động lên gia đình bao nhiêu thì gia đình cũng ảnh hưởng lên đời sống con cái bấy nhiêu. Nếu một gia đình ổn định, trong đó các thế hệ cùng chung sống hài hoà với nhau, thì người trẻ sẽ ít có những thay đổi về giá trị đạo đức, hay nói cách khác, giới trẻ sống trong gia đình đó sẽ rập theo nếp sống của cha ông họ. Còn những gia đình nào không có tính ổn định về cơ cấu thì quan niệm của người trẻ về đạo đức có thay đổi. Gia đình nào sống hạnh phúc, trong đó cha mẹ và con cái sống hài hoà với nhau, thì người trẻ sẽ cảm nhận được những giá trị cao đẹp như: hạnh phúc, lắng nghe nhau, tha thứ cho nhau, chấp nhận những khác biệt của nhau, yêu thương nhau, nâng đỡ nhau… Còn những gia đình nào không có được hạnh phúc thì con cái sẽ không có nhận định đúng đắn về những giá trị đạo đức như: yêu thương, nâng đỡ, hoà thuận… Từ chỗ đó, họ dễ rơi vào tình trạng chán đời, thất vọng: bỏ nhà đi bụi, sống bê tha, sống bất cần đời. Trong xã hội hiện đại, do hoàn cảnh kinh tế và công ăn việc làm, nên các thành viên trong gia đình phải tự lo nghề lo nghiệp để kiếm sống. Vì thế, thời gian dành cho nhau là rất ít, dẫn đến cơ cấu gia đình thay đổi. Gia đình ngày nay không còn là gia đình đóng như xưa nữa, mà là gia đình mở nghĩa là các thành viên có những mối tương quan với xã hội khác nhau.
2.1.1. Gia đình sống định cư ở nông thôn
Cuộc sống của họ quanh quẩn trong một phạm vi nhỏ, hằng ngày chỉ gặp mấy người, cùng đi làm, cùng chơi và cùng sống trong một thôn xóm. Do hoàn cảnh như thế, nên con người trong làng xóm đã quen với những sinh hoạt, những sinh hoạt này cứ lặp đi lặp lại, ít khi có thay đổi. Vì thế, người trẻ cũng ít có thay đổi về cách sống, về đạo đức, nghĩa là không có khoảng cách giữa họ và cha ông họ, nếu có thì cũng không đáng kể. Một xã hội như thế, giá trị truyền thống sẽ được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2.1.2. Những gia đình sống ở thành phố
Khoảng cách về đạo đức giữa các thành phần thì có sự cách biệt, những người trẻ sẽ có quan niệm về giá trị đạo đức khác hơn, mặt khác họ có những cái nhìn mới về thời cuộc sống cũng như những giá trị đạo đức hơn người trẻ ở nông thôn. Cuộc sống ở thành phố cao hơn ở nông thôn về nhiều mặt, như kinh tế, nhận thức và hưởng thụ. Con người ở thành phố không còn có giới hạn trong một phạm vi làng xóm, mà ở thành phố phạm vi đó được mở rộng ra. Con người ở thành phố cũng có nhiều mối quan hệ hơn vì công việc, vì nhu cầu cuộc sống. Các gia đình sống ở thành phố có nhiều xáo trộn hơn, chứ không thuần tuý như ở nông thôn. Do đó, quan niệm của con người ở thành phố nói chung và người trẻ nói riêng đều thay đổi. Thanh niên ở thành phố không còn quan tâm nhiều đến những giá trị truyền thống, mà thay vào đó họ có nhiều quan niệm mới hơn. Vì thế, việc thay đổi quan niệm về đạo đức xảy ra nơi họ cũng là điều dễ hiểu.
2.1.3. Vì những thay đổi về cơ cấu gia đình
Cơ cấu gia đình thay đổi kéo theo những biến đối về những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Những truyền thống tốt đẹp đó nằm trong những nền văn hoá của các dân tộc, nằm trong những phong tục tập quán có từ ngàn xưa. Đối với những người trẻ, điều lành mạnh thì khó học, nhưng những điều sai quấy thì họ lại nắm bắt rất nhanh. Và ngày nay xu thế này đang bao trùm lên khắp xã hội. Sống trong thời bùng nổ thông tin, con người trong chốc lát có thể nắm bắt được những thông tin quan trọng, và thông tin ấy chẳng mấy chốc đã lan đi khắp nơi. Một diễn viên điện ảnh ăn mặc kỳ quặc mới hôm qua, hôm nay đã có biết bao người trẻ học đòi bắt chước thời trang của diễn viên đó rồi. Họ tiếp thu những cái mới rất nhanh, hơn cả ngựa phi nước đại: “Chưa bao giờ tui bán đồ Hàn Quốc sướng như bây giờ. Bao nhiêu cũng hết, không sợ ngậm hàng! (…) Tui đâu có ngờ đám trẻ bây giờ nó đổi gu nhanh như vậy!”[2]
Còn những điều đẹp thì họ lại không nghĩ tưởng đến, mà ngược lại, lại cho đó là những điều lỗi thời. Do ảnh hưởng của xu thế thời đại, đại bộ phận giới trẻ đã thay đổi cách suy nghĩ, họ không nghĩ như các bậc cha anh của họ nữa. Ngay cả đạo đức, họ cũng đã quan niệm khác các thế hệ đi trước. Phải chăng họ tiến bộ hơn các bậc tiền bối? Hay họ chỉ nhất thời suy nghĩ nông nổi thôi? “Hết Hồng Kông tới Titanic, rồi tới Hàn Quốc, mệt quá! Hổng lẽ người ta cứ chạy vòng vòng không định hướng theo giới trẻ xứ người – không rõ mình đang làm gì! (…) Tivi vừa chiếu “Ngôi sao may mắn”. Không biết sắp tới có là thời trang Nhật…”.[3]
Để làm cho giới trẻ thay đổi cách suy nghĩ chín chắn và đúng đắn không phải là chuyện dễ!
Bên cạnh những thay đổi về cơ cấu gia đình, còn nhiều thay đổi khác khiến con người thay đổi cách nhìn về giá trị đạo đức.
2.2. Phương tiện thông tin đại chúng
Chưa bao giờ con người giàu thông tin như hôm nay. Có thể nói các phương tiện thông tin đại chúng đã làm thay đổi nhiều mặt của cuộc sống con người trong đó quan trọng nhất là nhận thức của họ. Nhờ vào thông tin đại chúng, con người có thể liên lạc với nhau dễ dàng và nhanh chóng, đồng thời nắm bắt được những thông tin quan trọng trong nháy mắt. Lượng thông tin càng ngày càng tăng và có chất lượng hơn, vì thế khoảng cách giữa nước này và nước khác về nhận thức đối với cuộc sống là không đáng kể. Người ta nói thời đại này là thời đại thông tin, ai mà đói thông tin, người đó là người lạc hậu, quả là đúng như vậy! Và chính thông tin đã làm cho con người, nhất là người trẻ có nhiều quan điểm khác hẳn người xưa, trong đó có cách nhìn về những giá trị đạo đức.
“Hoàn cầu hóa thông tin cũng bao hàm hoàn cầu hóa những khuyết điểm và tật xấu. Thị trường quốc tế và xa lộ thông tin cống hiến cho người trẻ nhiều món hàng và khả năng chọn lựa tất cả những gì mình muốn, ‘thượng vàng hạ cám’ đủ loại và đủ cách. Hôm nay không thể, và trong nhiều trường hợp không khôn ngoan, chủ trương kiểm soát hay kiểm duyệt những gì đang phổ biến qua hệ thống truyền thông xã hội hiện đại. Vấn đề là làm sao nội tâm hóa và ý thức hóa những giá trị đạo đức trong lương tâm cá nhân cũng như ý thức tập thể làm như phương thế hữu hiệu nhất để chống lại ảnh hưởng tiêu cực của hoàn cầu hóa. Mỗi một người được tự do chọn lựa, nhưng cần huấn luyện làm sao để họ biết chọn lựa và lấy quyết định một cách tự do dựa trên những giá trị đạo đức, những xác tín cá nhân và những sức mạnh tinh thần.”[4]
2.3. Trình độ học vấn
Ngày xưa, chuyện đến trường là mơ ước của con cái nhà giàu. Nhưng ngày nay, học hành là nhu cầu cần thiết phổ thông rồi. Người ta không chỉ muốn học xong tú tài mà còn muốn học nhiều, cao hơn để có địa vị xã hội. Hơn nữa, một nhu cầu nữa thấy rõ trong xã hội thông tin này, đó là nhu cầu “tự học” hay “tự đào tạo”. Ngày này, học không chỉ là chuyện phải có thầy, phải đến trường nữa, mà thay vào đó là ý thức tự vươn lên. Trình độc học vấn được nâng lên nhiều. Nếu ai không cập nhật thông tin và kiến thức hằng ngày thì người ấy sẽ lạc hậu và sẽ bị loại ra khỏi sân khấu cuộc chơi. Mỗi khi trình độ học vấn được nâng cao thì nhận thức về thời cuộc cũng thay đổi. Mà rõ ràng là người trẻ hôm nay được học nhiều hơn, được tiếp xúc với nhiều tiến bộ khoa học hơn người xưa thì chắc chắn họ có nhiều thay đổi về cách nhìn thế giới, con người và thời cuộc.
2.4. Đô thị
Kể từ vài thập niên trở lại đây, nhịp đổ phát triển đô thị đến chóng mặt. Nhà nhà, phố phố và thành thành, mọi người đang nỗ lực xây dựng cầu cống, đường sá, nhà cửa… để bắt kịp tiến trình phát triển cho dân giàu nước mạnh. Người người nhất là lớp thanh niên ở nông thôn đang đổ xô về thành phố để kiếm việc làm và để có cuộc sống sung túc hơn. Điều này kéo theo bao nhiêu vấn đề nhức nhối khác cho xã hội. Khi những người này chân ướt chân ráo từ thôn quê ra thành phố, họ như lạc vào cõi tiên dưới trần, bỡ ngỡ trước bao điều xa lạ của xã hội. Hơn nữa, lại xa gia đình và tầm kiểm soát của bố mẹ, họ dễ rơi vào con đường hư hỏng. Từ chỗ sống khép kín nơi thôn quê, người trẻ ra thành phố như bị choáng ngợp bởi những phương tiện vật chất, họ dễ bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc đời. Từ cuộc sống khô hạn, họ như được một cơn mưa đổ xuống, họ đưa hết lòng ra để hưởng nếm. Thực tế cho ta thấy là rất nhiều bạn trẻ đã không làm chủ được mình trước những lời mời mọc của xã hội thị thành. Nhìn vào thực tế ở TP.HCM, chúng ta cũng thấy được tình trạng sống của giới trẻ thành phố và ở thôn quê lên thành phố.
2.5. Nghề nghiệp
Xã hội công nghiệp làm cho con người năng động hơn, biết thích nghi nhanh với những hoàn cảnh và lối sống mới. Không giống như xã hội lúa nước thời xưa, con người chỉ biết sống với những đường cày, đồng ruộng; ngày nay, con người đã chế tạo ra nhiều loại máy móc để thay thế cho sức người, làm nhiều công việc để phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế giới ngày càng đa dạng về công ăn việc làm thì cũng đòi hỏi con người phải có nhiều nghề nhiều nghiệp hay nhiều kỹ xảo nghề nghiệp hơn.
“Tư bản nhân văn là nhân tố cơ bản của phát triển trong tương lai, bởi vì cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đòi hỏi tính năng động, sáng kiến và công nhân có tay nghề cao. Khi chúng ta quả quyết rằng máy vi tính là biểu tượng của văn minh mới, dĩ nhiên không phải là máy vi tính mà chính là con người sáng chế, điều khiển và vận dụng máy vi tính vào hoạt động sản xuất mới là nhân tố quyết định của xã hội tương lai”.[5]
Lao động có vai trò giáo dục con người rất lớn. Lao động làm cho con người vinh quang. Lao động cũng giúp con người phát triển cá tính và nhân cách. Tuy nhiên, ngày nay, con người đang mải mê vì công việc mà không lo đến nhân cách của mình. Họ cứ lo kiếm tiền và kiếm cách cho có thật nhiều tiền bất chấp mọi thủ đoạn. Họ không quan tâm đến những việc đó có ảnh hưởng đến nhân cách của mình hay không. Đó là nguy cơ của con người hiện đại hôm nay:
“Trong vài mươi năm lại đây, ở những xã hội mà nền kỹ nghệ đã được phát triển cao độ, đặc biệt là những quốc gia Âu Mỹ, người ta nhận thấy tuổi trẻ đã bị lâm vào một cuộc khủng hoảng hết sức trầm trọng. Có hai hiện tượng nổi bật qua những sinh hoạt cuả lứa tuổi này: một là chúng sống cô độc, luôn luôn như có một niềm khắc khoải vô cớ, hành động không hướng về mục đích nào rõ rệt, tâm trạng thường xuyên buồn nản chán chường, tựa hồ như một lớp người đã quá mệt mỏi với một cuộc sống phức tạp, nặng nề. Hai là chúng họp thành nhóm, thành băng, dùng sự manh động để mà đối xử với nhau, hoặc gây những sự rối loạn ở trong đời sống hằng ngày. Trạng thái thụ động cũng như hoạt động của lớp trẻ này bề ngoài có vẻ như là hoàn toàn trái ngược hẳn nhau nhưng trên bản chất là hai biểu hiện khác nhau của một thực trạng”.[6] 3. Quan niệm của người trẻ về đạo đức
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, lịch sử nhân loại bước sang một trang mới với những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng và ngay cả cách sống nữa. Phải chăng chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến những đổi thay đó? Chiến tranh có một phần là sự thật trong những biến đổi xã hội đó. Có lẽ nguyên nhân chính là tốc độ đô thị hoá, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật… ẩn đằng sau những mặt tích cực là những điều khiến các nhà chức trách, những người có tâm huyết phải bận tâm suy nghĩ. Đó là phẩm giá con người, là nhân cách của giới trẻ, là lối sống bất cần đời của những con người không lý tưởng. Cuộc sống hiện đại ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách của con người trẻ hôm nay. Vâng chính xã hội tiêu thụ và kiếm tiền hôm nay đã biến người trẻ thành những con người máy:
“Ở trong xã hội tiêu thụ, con người biến thành những hạng tiêu dùng hàng hoá cho các tư bản kỹ nghệ, trở thành nạn nhân của các thủ đoạn quảng cáo, mệt mỏi chạy theo tiện nghi, không còn lý tưởng nào khác là ăn và ngủ và làm tình. Như thế, cuộc sống con người cứ mải quay quắt chạy theo đồng tiền, và kiếm tiền được cũng chỉ là để tiêu thụ, cung ứng cho một cuộc sống vật chất vốn không bao giờ đạt tới thoả mãn”.[7]
Từ những thay đổi về cơ cấu kinh tế, chính trị, văn hoá và tư duy, con người đã có những thay đổi về giá trị đạo đức. Có thể nói, khi cuộc sống hiện đại bắt đầu cũng là lúc con người biết tôn trọng nhân phẩm hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề nổi cộm hơn. Chiến tranh kết thúc, sự thống trị của thực dân và đế quốc không còn, nhưng có những hình thức bóc lột khác xuất hiện như buôn bán phụ nữ và trẻ em. Có nhiều hình thức bóc lột còn ghê sợ hơn thực dân và đế quốc. Có nhiều tội ác còn đáng sợ hơn là chiến tranh như nạo phá thai, hằng năm chỉ riêng tại Việt Nam đã có khoảng vài triệu thai nhi phải chết khi chưa thấy ánh sáng mặt trời bởi quan niệm sai lệch về đạo đức. Có lẽ không có tội ác nào lớn cho bằng tội ác giết hại thai nhi mà cứ tưởng đó là việc làm nhân đạo, vì nạo phá thai là kế hoạch hoá gia đình, là phát triển kinh tế, là tránh được đói nghèo…
Như trên chúng tôi đã đề cập đến, có nhiều nguyên nhân dẫn đến lối nhìn về giá trị đạo đức nơi người trẻ.