Sự sống con người theo lý Thiền Part 2

Chủ nhật - 04/12/2011 11:16

 

PHẦN MỘT: SỰ SỐNG CON NGƯỜI THEO LÝ THIỀN (tt)

5. Nhìn thấy được bản tính mình

 

Trước đã nói đến những điều kiện tâm lý để khai mở lòng tin, đã nói đến sự cần thiết tập nhận thức về hiện hữu của mình. Đó là những hoạt động trung tâm của nội tâm nhằm đi đến cái nhìn mới trong giác ngộ. Thiền gọi đó là nhìn thấy được bản tính của mình.
 
Là con người thông thường, tôi nhận thấy rằng mình không thể làm việc đó được. Thật vậy, việc đó tùy thuộc vào việc mở con mắt thứ ba, còn trong nội tâm tôi thì hiện tại mọi sự diễn ra như con mắt thứ ba đó đang nhắm khít lại. Con mắt thứ ba của tôi không bệnh tật gì cả, nhưng nó có thói quen nhắm khít lại, một thói quen gây khốn đốn cho tôi. Do đó việc tôi phải làm trước hết là ý thức về thói quen đó và tìm cách diệt trừ thói quen đó bắt nguồn từ một sự co thắt nào đó, nên cần phải có một nỗ lực tạo thư giãn. Thế nhưng nỗ lực tạo thư giãn đó thực chất là gì?
 
Thưa nỗ lực tạo thư giãn đó là cái nhìn vào nội tâm, nhìn vào bản tính của mình để thấy được cảm giác toàn thân, cảm giác toàn tâm, cảm giác toàn diện con người của ta. Cái nhìn đó là nỗ lực chủ yếu để một ngày nào đó con mắt thứ ba có thể mở ra và nhìn thấy. Đó là lúc lòng tin bừng dậy, là lúc giác ngộ.
 
Giữa cảm giác toàn diện con người của ta và cảm giác toàn thân có hai điểm giống nhau. Thứ nhất sở dĩ ta có được cảm giác đó, trước tiên là nhờ một sự buông xả, một sự thư giãn. Thứ hai là nhận thức cảm giác đó là một nhận thức phi hình sắc. Khi cánh tay tôi co rút lại, tôi cảm giác được hình thể của nó, khi nó thư giãn trong vài phút, tôi cũng cảm giác nó, nhưng không phải về hình thể mà về sự hiện hữu của nó. Cảm giác này là một nhận thức phi hình sắc.
 
Nhận thức trong trạng thái thư giãn và nhận thức phi hình sắc, đó là hai điểm chung cho cảm giác toàn thân, cảm giác toàn tâm và cảm giác toàn diện con người. Thế nhưng cảm giác toàn thân khác biệt với cảm giác toàn tâm và cảm giác toàn diện con người ở phương diện thời gian, vì cảm giác toàn thân có thể kéo dài trong thời gian, còn hai cảm giác kia chỉ là một tia sáng lóe lên trong khoảnh khắc, vừa chợt xuất hiện thì cũng vội biến mất. Như thế nhận thức tình trạng hiện hữu của tôi chỉ là việc đột phá trong khoảnh khắc, nó thiếu chiều kích thời gian, một chiều kích cần được chinh phục để nhận thức về hiện hữu có thể trở thành một ý thức thật sự về mình.
 
Tóm lại, để mở con mắt thứ ba, ta cần nỗ lực biến những cảm giác đột phá về hiện hữu của mình thành ý thức kéo dài trong thời gian. Ta có thể đạt được điều này bằng cách tập ngày càng có nhận thức đột phá về hiện hữu của mình. Tất cả những nỗ lực của hoạt động nội tâm nói trên luôn luôn phải là một nỗ lực thư giãn, vượt lên trên mọi rối rắm phức tạp để đi vào một trạng thái giản dị đơn thuần. Tất cả những cố gắng và những hoạt động nội tâm đó như không hoạt động, nghĩa là ở trong trạng thái vô vị. Đây là điều ra phải kiên trì luyện tập lâu dài. Tập giữ cơ thể ta ở trong tình trạng thư giãn 5, 3 phút đã là điều khó, huống chi đối với nội tâm đã bị gắn chặt với một nếp sống khuấy động đảo điên trong thế giới hình sắc rối ren. Điều đó rõ ràng đòi hõi một ý chí kiên trì trong tu luyện.

 

 

Hoạt động nội tâm đánh thức lòng tin

 

PHẦN MỘT: SỰ SỐNG CON NGƯỜI THEO LÝ THIỀN (tt)

6. Hoạt động nội tâm đánh thức lòng tin

Trên đã nói rằng hoạt động nội tâm phải như không hoạt động, phải gắn liền với trạng thái vô vi. Ta có thể tìm hiểu hoạt động trạng thái vô vi qua hình ảnh về hoạt động của cơ thể ta. Tế bào tủy có chức năng làm co thắt bắp thịt. Đó là điều diễn ra khi ta cử động. Còn tế bào não thì có chức năng hóa giải hoạt động của tế bào tủy, làm cho bắp thịt thư giãn. Do đó việc thư giãn cơ thể đòi hỏi một sự ngưng hoạt động ở tế bào tủy (cấp dưới) và một sự hoạt động ở tế bào não (cấp trên).

Một kinh nghiệm khác. Qua những hiện tượng như cử động, suy nghĩ, hành động, trực giác cho ta biết rằng trong ta có một nguồn sinh lực dồi dào. Dù ta không có một nhận thức trực tiếp nào về nguồn sinh lực đó, điều hiển nhiên là mọi người phải công nhận rằng cơ thể mỗi người là một kho chứa sinh lực. Ở trong tôi, sinh lực đó từ trạng thái tiềm năng đi đến trạng thái hiện thể khi có một sự kích thích từ ngoài tới. Kích thích qua con đường thể lý hoặc tâm lý. Sự kích thích đó hệ tại ở sự căng thẳng cưỡng lực giữa tôi và thế giới bên ngoài. Thí dụ như giữa cái tôi ăn uống vào và cơ thể tôi có một sự căng thẳng lưỡng cực. Hoặc như khi tôi thấy một đe dọa mạng sống, thì giữa hình ảnh từ ngoài (muốn đe dọa) với bản năng sinh tồn trong tôi có một sự căng thẳng lưỡng cực.

Khi còn ở trong kho chứa, sinh lực tôi ở trạng thái tiềm năng, nghĩa là trạng thái phi hình thức. Khi mới phát ra từ kho chứa, sinh lực đó là trung gian giữa nguồn chứa và những hiện tượng tâm sinh lý nơi tôi, như nguyên lý âm dương ở giữa Nguyên lý Tối Thượng và thế giới hiện tượng của vũ trụ. Do đó khi phát ra từ kho chứa, sinh lực có thể mang bộ mặt âm dương, nghĩa là tiêu cực hoặc tích cực. Nếu tôi cảm nhận sự kích thích từ ngoài như một khẳng định cái ngã, thì sinh lức phát ra mang tính tích cực (dương), nó tạo nên một hứng khởi trong tôi, một hướng tìm về tha nhân (yêu thương, nhân ái). Nếu tôi cảm nhận sự kích thích từ ngoài như một phủ nhận cái ngã, thì sinh lực phát ra mang tính tiêu cực (âm), nó tạo nên một trống rỗng, một chán nản nơi tôi, một thái độ thù nghịch đối với tha nhân (chán ghét, gây hấn, chống đối…).

Bằng trực giác nội tâm, ta có thể nhận thức được sinh lực đó lúc nó mới phát ra, nhưng vì nó còn ở trạng thái phi hình thức, nên ta không thể mô tả nó. Khi nghe một tin vui, và nếu tôi loại trừ khỏi tâm trí tôi mọi ý nghĩ về biến cố may mắn, thì tôi có thể cảm thấy có một sinh lực sôi động trong tôi. Trái lại, khi nghe một tin buồn, tôi cảm thấy một sự trống rỗng. Điều đó chứng tỏ rằng tôi có khả năng hướng sự chú ý của mình về trung tâm nơi phát xuất sự sống của tôi, một trung tâm thuộc bình diện phi hình thức, và hoạt động của trung tâm đó tương hợp với trạng thái vô vi ở bình diện hình thức của những hiện tượng diễn ra nơi bản thân tôi.

Điều vừa được trình bày trên là một sự kiện hoàn toàn cụ thể. Thí dụ, khi chẳng may mất hết tiền bạc, tôi thụ động để lòng trí tự nhiên hoạt động ở bình diện hình thức, thì nó có nhiều tưởng tượng bày vẻ với nhiều nỗi lo âu sợ hãi cho hiện tại và tương lai. Nếu ngay lúc đó, tôi chủ động hướng lòng trí và sự chú ý về cảm giác trống rỗng của mình, thì tôi sẽ thấy trí tưởng tượng của tôi ngưng hoạt động. Đó là một sự kiện mà mỗi người có thể cảm nghiệm và tự xác minh. Như vậy sự hoạt động ở bình diện phi hình thức (hoạt động cấp cao, như của tế bào não) đòi hỏi một sự ngưng hoạt động ở bình diện hình thức (hoạt động cấp thấp, như của tế bào tủy). Sự chú ý trụ ở bình diện phi hình thức trở thành cái phanh đối với hoạt động ở bình diện hình thức.

Số phận của sinh lực phát ra tùy thuộc vào hướng hoạt động của sự chú thế giới của ta. Thông thường, con người thụ động để cho sự chú ý của mình tự nhiên hướng về bình diện hình sắc, để cho nó bị cuốn hút trong những hiện tượng nội tâm hoặc bên ngoài. Trong tình hình đó, sinh lực con người bị tiêu hao để trở thành cảm xúc. Do đó cảm xúc là một hiện tượng nội tâm làm phát sinh những tưởng tượng bày vẻ và những biến động thể lý (đỏ mặt, tái mặt, cười, khóc, run…). Óc tưởng tượng càng làm việc thì nó càng kích thích sinh lực và sinh lực càng tiêu hao, như vận hành đi trong cái vòng lẩn quẩn khép kín.

Trái lại, nếu sự chú ý được ta chủ động sớm hướng về kho chứa sinh lực, về nguồn phi hình sắc, và trụ nó ở đó một thời gian, thì trong thời gian đó sinh lực ta thoát khỏi tình trạng bị tiêu hao thành cảm xúc. Nó không làm phát sinh những tưởng tượng, những biến đổi thể lý. Vậy số phận của sinh lực đó ra sao? Thưa nó được tồn trữ dần dần nơi ta cho đến khi đủ sức làm tung bức màn vô minh để ánh giác tràn vào tâm trí ta, lúc bấy giờ lòng tin bừng sáng, con mắt thứ ba mở ra nhìn thấy mọi sự dưới một ánh sáng mới.

Trong thời gian được tồn trữ nhưng chưa đủ sức làm tung bức màn vô minh, sinh lực phi hình sắc đó có thể mang lại hiệu quả là ta trở nên điềm tỉnh và khôn ngoan hơn, hay nói đúng hơn là ta bớt bực bội nổi khùng trong cuộc sống thông thường. Nếu có những người càng lớn tuổi càng trầm tĩnh, khôn ngoan, nhìn rộng thấy xa, và bao dung, đó là vì họ kinh nghiệm tính hư ảo của lãnh vực hình sắc, nên ít chú ý đến hình sắc, hay nói cách khác là vì họ đã chuyển dần sự chú tâm từ lãnh vực hình sắc sang lãnh vực phi hình sắc. Một cách không ý thức, nội tâm của họ hoạt động theo hướng đi đến giác ngộ, đánh thức lòng tin. Vì không ý thức nên hoạt động nội tâm đó ở mức độ yếu, sinh lực lưu tồn chưa đến độ đủ sức tung bức màn vô minh để lòng tin bừng sáng.

Như thế, hoạt động nội tâm nhằm đánh thức lòng tin đang mê giấc, chủ yếu là chuyển sự chú ý của ta từ lãnh vực hình sắc thông thường sang lãnh vực phi hình sắc và trụ nó ở đó một thời gian, nhờ thế mà sinh lực được bảo tồn, khỏi bị thất thoát tiêu hao qua con đường cảm xúc. Như vậy hoạt động nội tâm ở lãnh vực phi hình sắc đồng nghĩa với một sự ngưng hoạt động ở lãnh vực hình sắc và lãnh vực cảm xúc. Đó là hoạt động như không hoạt động (có như không), đó là hoạt động trong vô vi. Hoạt động này cũng theo qui luật luân chuyển (sáng - tối, ngày-đêm, lên-xuống, nóng-lạnh) trong tạo vật. Nói cách khác là nó không thể kéo dài liên tục mãi được, mà nó tất nhiên đứt khoảng. Cố gắng kéo dài liên tục quá sức mình đồng nghĩa với căng thẳng, với rối loạn thần kinh, với tự sát.

Mặt khác, trong hoạt động nội tâm đó, tâm trí ta không nên chú ý nhằm đến việc bảo tồn sinh lực, vì nhằm như thế là tâm trí bị ám ảnh bởi nỗi khắc khoải lo sợ mất sinh lực, là tâm trí bị căng thẳng, làm cản trở cho sự thư giãn và an định nội tâm.

Cuối cùng, hoạt động nội tâm đó song hành với cuộc sống thường ngày mà không làm đảo lộn nó. Tâm trí ta không chú ý đến những tưởng tượng, những cảm xúc, thì tác động của chúng đối với tâm trí giảm dần, và dần dần tâm trí trở nên dửng dưng đối với chúng. Với khả năng này, nội tâm có thể hoạt động cả trong những sinh hoạt thường ngày, như ăn uống, đi lại, làm việc tay chân… dĩ nhiên là theo một nhịp điệu luân chuyển cách khoảng như đã nói trên. Nội tâm hoạt động theo chiều hướng đó càng thường xuyên thì càng lưu trữ nhiều sinh lực, và càng có khả năng làm nổ tung hoạt động ma quái và thế giới ảo tưởng của ta, càng có khả năng làm tung bức màn vô minh cho con mắt đức tin thấy thực tại tròn đầy của cuộc sống, của vạn vật, dưới ánh sáng chân lý của Thượng Trí Thần Linh.

Tuân theo bản tính sự vật

 

PHẦN MỘT: SỰ SỐNG CON NGƯỜI THEO LÝ THIỀN (tt)

 

7. Tuân theo bản tính sự vật
 
Nơi con người có sự hiện diện của Nguyên lý Tối Thượng, là nguồn mạch mọi sự, nên con người không còn thiếu chi. Thế nhưng, con người thông thường không nhận thức được điều đó, vì lẽ họ bị tù hãm trong cái rối rắm chằng chịt của thế giới ảo tưởng mà hoạt động của trí tưởng tượng đã dựng lên. Thế giới đó là bức màn ngăn cách ta với Thực tại Tuyệt hảo.
 
Hoạt động của trí tưởng tượng hữu ích cho sự sống con người khi trí năng trừu tượng chưa phát triển đầy đủ. Trong thời gian này, hoạt động của trí tưởng tượng là điều cần thiết để con người có thể chấp nhận giới hạn của mình. Một khi trí năng phát triển đầy đủ, trí tưởng tượng trở thành con dao hai lưỡi, vừa cần thiết vừa có hại cho sự sống con người. Có hại vì chính nó làm tiêu hao sinh lực con người. Và điều tệ hại hơn nữa là con người nghĩ rằng những giây phút khuây khỏa mà hoạt động của trí tưởng tượng mang lại cho mình có sức cải thiện tình trạng khốn đốn của mình, có sức hủy hoại những lo âu khắc khoải của mình.
 
Tại sao con người lại nghĩ như thế? Thưa bởi vì con người chỉ nghĩ đến nó là phương thế duy nhất giúp mình tự giải thoát, tất nhiên họ tin vững vàng như thế. Thế nhưng, nếu quan sát sự sống thể xác của tôi, tôi thấy rằng có những điều kỳ diệu được thực hiện một cách tự phát, không cần đến trợ lực của cái tôi. Thân thể tôi được bồidưỡng bằng những phương thức rất phức tạp vượt quá trí tưởng tượng của tôi. Khi bị một vết thương, da thịt tôi tự lành lại. Cái gì, ai làm cho nó lành lại? Suy nghĩ đó đưa tôi đến ý niệm về một nguyên lý vừa không mỏi mệt vừa thân hữu không ngừng tạo nên tôi theo sáng kiến riêng của mình. Chi thể tôi được phát triển một cách tự phát, vậy đời sống tinh thần có thể phát triển một cách tự phát không? Thiền lý trả lời có.
 
Sự phát triển bình thường của đời sống tinh thần sẽ đưa con người đến giác ngộ, đến chỗ lòng tin được khai sáng. Nguyên lý Tối Thượng và tuyệt hảo ở trong tôi không ngừng họat động để đưa tôi đến đó, cũng như nguyên lý đó đang hoạt động nơi nụ hoa để đưa nụ hoa đến chỗ nở thành một đóa hoa. Nhưng chính hoạt động của trí tưởng tượng, tác động bởi cảm giác và cảm xúc, cản trở hoạt động của Nguyên lý Tối Thượng trong tôi, đồng thời làm tiêu hao sinh lực do nguyên lý đó tạo nên trong tôi. Nếu không có sự tiêu hao đó, sinh lực trong tôi dành cho việc khai sáng lòng tin. Vì không biết việc Nguyên lý Tối Thượng đang hoạt động trong tôi để đưa tôi đến sự sống sung mãn và hạnh phúc, nên tôi chỉ dựa vào cái tôi riêng tư của mình. Đây cũng là điều hóa giải hoạt động của Nguyên lý Tối Thượng trong tôi.
 
Việc cản trở hóa giải hoạt động của Nguyên lý Tối Thượng đó trở thành những phản ứng máy móc, nghĩa là nó trở nên tự động khi tôi không ý thức tin vào nguyên lý đó đang hoạt động nhằm giải thoát tôi. Nói cách khác, sự triển nở tự phát của sự sống trong tôi chỉ được thực hiện khi tôi ý thức tin vào Nguyên lý Tối Thượng trong tôi, tin vào hoạt động tự phát của nguyên lý đó nhằm giải thoát tôi. Lòng tin của tôi khi được đánh thức bừng tỉnh dậy, nó không dời non đổi núi, nhưng trở thành điều kiện thuận lợi cho Nguyên lý Tối Thượng thực hiện những điều kỳ diệu trong tôi.
 
Lòng tin bừng tỉnh của tôi hoạt động một cách tự phát nhằm đưa tôi đến giác ngộ ngày một hơn. Nó hệ tại ở việc xây dựng một xác tín mỗi ngày một vững chắc hơn rằng Nguyên lý Tối Thượng đang hoạt động trong tôi, rằng nhờ đó mà sự sống của tôi đang tiến triển cách tự phát để đi đến chỗ sung mãn và chí thiện chí hảo ngày một hơn. Khái niệm đó, xác tín đó không đến với tôi cách tự động, vì lẽ thế giới bên ngoài không ngừng làm cho tôi tin rằng điều thiện hảo cho tôi hệ tại ở những thành công, những thỏa mãn do những múa máy động đậy của tôi mang lại cho tôi. Kỳ thực thì thế giới bên ngoài làm cho tôi bị phân tâm và căng thẳng, đánh cắp sự chú ý của tôi và đưa nó vào những suy tính lo sợ. Do đó hoạt động tập trung và kiên trì của tâm trí bên trong là điều cần thiết cho việc hợp tác với Nguyên lý Tối Thượng đang giải thoát tôi, đang xây dựng tôi, đang đưa tôi đến một cuộc sống tự do và hạnh phúc.
 
Như thế vô vi có nghĩa là vừa bất động trong thế giới hiện tượng và hình sắc, vừa hoạt động trong thế giới thuần túy tinh thần. Nói cách khác, khi ta chú ý đưa tâm trí vào hoạt động trong thế giới phi hình sắc (hoạt động cấp cao) thì hoạt động, cảm giác, cảm xúc và trí tưởng tượng do tác động của thế giới hiện tượng và hình sắc(hoạt động cấp thấp), sẽ dừng lại, nghĩa là đi vào trạng thái vô vi.
 
Đến đây ta cần tránh một sự hiểu lầm: vô vi không có nghĩa là sự chú ý của ta phải tách rời thực tế cuộc sống như một người mộng du, phải không ngừng qui chiếu Nguyên lý Tối Thượng đang hoạt động trong ta. Làm như thế có thể đưa ta đến tình trạng thác loạn tâm thần (tẩu hỏa nhập ma).
 
Hoạt động của tâm trí phải theo một thể thức khác. Vào những giờ phút và hoàn cảnh thuận lợi, ta suy nghĩ về nhận thức của ta về hoạt động tự phát của Nguyên lý Tối Thượng đang giải thoát ta, ta đem hết tâm trí tập trung suy nghĩ một cách cụ thể hết sức có thể về những điều vô cùng kỳ diệu đang hình thành nơi ta để giải quyết một ngày nào đó mọi lo sợ, mọi dục vọng của ta. Vào những lúc suy nghĩ đó, ta đang gieo vãi niềm tin ta, ta đang lay tỉnh lòng tin đang mê giấc của ta, và cùng với lòng tin đó là lòng cậy và lòng mến. Rồi khi ta trở lại cuộc sống thường nhật, ta lại sống, lại sinh hoạt như thường lệ. Thế nhưng, nhờ có những lúc ta đã suy nghĩ đúng hướng, trong sinh hoạt thường lệ một phần của sự chú ý của ta vẫn còn gắn chặt với suy nghĩ đúng đó, mặc dù suy nghĩ đúng đó đã đi vào chiều sâu ẩn khuất của tiềm thức. Một phần của sự chú ý đó vẫn tồn tại trong sinh hoạt thường lệ của cuộc sống hằng ngày của ta. Một người đã từng đặt hết tâm trí vào một công trình, hoặc vào một người yêu, hiểu rất rõ về điều vừa miêu tả đó.
 
Trong việc góp phần tạo điều kiện cho Nguyên lý Tối Thượng giải thoát ta, ta cần tạo được trạng thái vừa mô tả trên, bằng những giờ phút suy niệm đặc biệt trong cuộc sống hằng ngày. Kỳ thực, những giờ phút suy niệm đặc biệt đó chưa phải là điều hệ trọng, mà điều hệ trọng là hiệu quả của những giờ phút đó, những hiệu quả này chỉ diễn ra khi lòng tin của ta đi vào trạng thái bừng tỉnh, giành được một phần của sự chú ý cỷa ta, một phần của sinh lực trong ta khi ta sinh hoạt thường lệ, trong khi ta lao động trí óc hoặc chân tay…
 
Lòng tin dành được sự chú ý của ta càng nhiều thì tâm trí ta càng ít bị ràng buộc bởi thế giới hiện tượng và hình sắc, và những lo sợ và dục vọng của ta càng mất đi mức độ nhạy bén và sức lôi cuốn của chúng để sự sống của ta tuân theo bản tính sự vật và hòa với nhịp hoạt động của thực tại tuyệt hảo.
 
Con người thông thường có những khi ở trạng thái xả và vô vi, như những lúc an giấc mà không nằm mộng. Khi đó mọi dục vọng ngưng hoạt động, con người như hoàn toàn phó thác cho Nguyên lý Tối Thượng dẫn dắt, họ hoàn toàn không can thiệp vào việc làm của Nguyên lý đó. Chính vì trong giấc ngủ con người ở trạng thái buông xả và vô vi mà giấc ngủ có một hiệu quả bồi dưỡng rất là kỳ diệu. Thế nhưng, vì trong giấc ngủ, sự chú ý của tâm trí cũng ngưng hoạt động, nên giấc ngủ không đưa con người đến giác ngộ được, không đánh thức lòng tin của con người được.
 
Mỗi một bước tiến của việc phát huy niềm tin vào Nguyên lý Tối Thượng đang hoạt động trong ta, làm suy yếu thêm cái nhìn vị kỷ và qui ngã của trí tưởng tượng của ta, nhưng không làm suy yếu cái nhìn vào thực tế cuộc sống hiện tại. Sự tăng trưởng của niềm tin tạo sự phân biệt giữa hai cái nhìn đó. Việc làm suy yếu tính vị kỷ và qui ngã của trí tưởng tượng đưa ta đến gần trạng thái vô vi, nhờ đó mọi sự an tĩnh nội tâm được thiết lập. Như thế ta chỉ cần suy nghĩ đúng, hay đúng hơn là ta đừng suy nghĩ sai, là Nguyên lý Tối Thượng hoạt động tự phát trong ta.
 
Để hiểu rõ hơn những gì đã được nói trên, ta có thể tìm hiểu hình ảnh so sánh sau đây. Nói về sự phát triển nhân cách, có thể so sánh con người như một bong bóng cao su từ hình dạng ban đầu nhỏ tròn đẹp, được một luồng khí thổi dần dần căng phồng lên.
 
Lúc mới sinh, thì sánh như cái bong bóng ban đầu chưa có hình dạng khác biệt với những cái khác. Nguyên lý Tối Thượng thổi hơi vào, bong bóng tăng thể tích, đồng thời cũng thay đổi hình dạng khác với lúc ban đầu, rồi dần dần lớn lên với một hình dạng riêng biệt. Đó là những bước phát triển của cái gọi là cá tính, là nhân cách.
 
Nếu từ trong cũng như từ ngoài không có gì cản trở sự tiến hóa bình thường, thì mọi sự diễn ra như sau. Đến tuổi dậy thì, bong bóng cao su được coi như đạt đến một hình dạng nhất định, có thể là một hình người, hình một loài vật… Nhưng Nguyên lý Tối Thượng tiếp tục thổi hơi vào, dung tích bong bóng tăng làm cho những chỗ lồi lõm ở bề mặt giảm dần để bong bóng mang một hình dạng một trái cầu bầu tròn, không còn cái riêng biệt của hình dạng người hay vật nữa. Nếu thổi hơi vào mãi, ắt bong bóng sẽ nổ tan.
 
Tiến trình tăng trưởng bình thường đó gồm có 3 giai đoạn.
 
* Giai đoạn đầu, cái bong bóng đó chỉ là miếng cao su tròn nhỏ dẹp, đó là giai đoạn trước khi nhân cách phát triển.
 
* Giai đoạn hai là giai đoạn nhân cách phát triển, một nhân cách sánh như một pho tượng với những đường nét riêng biệt độc đáo, phức tạp.
 
* Giai đoạn ba, trước khi nổ tan, cái riêng biệt, độc đáo, phức tạp, giảm dần, và cá tính lu mờ dần theo mức độ tư tưởng đạt đến một cái nhìn bao quát, hay đúng hơn là thoát ra khỏi tính hẹp hòi cứng nhắc. Con người trở về hình dạng tròn của lúc ban đầu, nhưng không còn nhỏ dẹp, mà là hình một trái cầu bầu tròn. Giai đọan này giống giai đoạn đầu ở hình dạng tròn (không giống như trẻ nhỏ, không được vào Nước Chúa). Giai đoạn ba (trái cầu bầu tròn) xuất hiện với ta vừa như một tiến bộ vừa như một thoái hóa, tiến bộ về mặt phổ quát hòa hợp với vũ trụ thiên nhiên, thoái hóa về mặt đặc điểm cá biệt, cái phân biệt cá nhân với tha nhân lu mờ dần, những lồi lõm biến mất, cái tôi và con người cũ suy tàn và tăng độ hấp hối theo bước tiến đến gần con người mới (Hãy dọn đường cho Chúa đến, hãy san bằng những lồi lõm…).
 
Kết thúc giai đoạn ba là bong bóng nổ tan. Đó là giây phút mọi ranh giới sụp đổ, đó là giây phút cái tôi biến mất để con người hòa hợp với Nhất Thể, nên một với Thiên Chúa bao la vô biên.
 
Do thiếu ý thức, con người thông thường vô ý cản trở cuộc tiến hóa bình thường đó. Trước hết có thể không ý thức về hơi được thổi vào mà chỉ thấy bề mặt bên ngoài với những đường nét cá biệt, độc đáo, chỉ chú ý đến những đường nét đó. Vì muốn giữ những đường nét đó, nên con người xoay sở theo ý riêng mình và vô tình để hơi khí thất thoát. Trí tưởng tượng và cảm xúc trở thành một thứ xupáp an toàn cho ý riêng của con người: Khi hơi thở vào bắt đầu làm căng thêm bong bóng thì xubáp tự động mở để hơi khí thoát ra ngỏ cảm xúc và tưởng tượng. Từ đó sinh lực con người bị tiêu hao lãng phí, một sinh lực đáng lý phải được tồn trữ để đưa con người đến chỗ hòa hợp với Nhất Thể, với Thiên Chúa vô biên.
 
Bình thản nhìn lại mình, ta sẽ cảm thấy ít nhiều gì mình thường xuyên ở trong trạng thái căng thẳng. Ta thấy được điều đó qua tính bồn chồn và dễ xúc động của ta, tính lên xuống của tinh thần. Đó là những cản trở vô ý thức đối với hoạt động của Nguyên lý Tối Thượng đang thổi hơi (Chúa Thánh Thần) vào con người của ta.
 
Thấy được tình trạng căng thẳng là điều dễ, nhưng thấy được cách xả trừ nó và tạo thư giãn cho nội tâm là điều khó. Sự thư giãn xuất hiện vào lúc tôi ý thức được sự căng thẳng trong tôi và điều sự chú ý ra khỏi hoàn cảnh gây căng thẳng, hướng về nguồn mạch sự sống. Đồng thời biết chấp nhận sự căng thẳng đó cách bình thản.
 
Theo mức độ tôi thoát ra khỏi sự mê muội vô ý thức nói trên và xác tín rằng thực tại không nằm nơi hình thức bề ngoài là đối tượng của lo sợ và ham muốn, mà nằm nơi nguồn sinh khí đang thổi vào con người tôi, theo mức độ xác tín đó, sự chú ý của tôi rời những hình thức và hướng về nguồn mạch và trung tâm phát xuất sự sống của tôi. Tôi có thể thực hiện điều đó khi tôi đã hiểu được rằng Nguyên lý Tối Thượng đang đưa tôi đến sự kiện toàn và tôi không phải xao xuyến băn khoăn gì về việc đó. Lúc đó trí tưởng tượng và cảm xúc của tôi tạm ngưng hoạt động giây lát, và tôi cảm thấy thư giãn và an tĩnh. Đó là những gì tôi cảm thấy được, nhưng ngoài ra thì tôi còn biết được rằng dung tích của bong bóng cao su của tôi vừa được tăng thêm một chút qua việt giảm bớt những đường nét lồi lõm của nó. Dĩ nhiên, những cái tôi cảm và thấy đó chỉ thoáng qua trong giây lát, vì thế mà việc buông xả và thư giãn cần được kiên trì thực hiện lặp đi lặp lại mãi trong cuộc sống thường ngày. (Đó là lý do tại sao ta phải cầu nguyện nhiều lần trong ngày, các giờ kinh phụng vụ, đọc kinh trước mỗi việc làm, an uống, những lời nguyện tắt, tất cả là để nâng cao tâm hồn, vượt lên trên mọi khấy động của cảm xúc, của trí tưởng tượng theo những hiện tượng, hình sắc bên ngoài, để đi vào an tĩnh.)
 
Trong mê muội vô minh, lúc lòng tin mê giấc, hoạt động nội tâm diễn ra hoàn toàn ngược chiều với con đường bình thường. Con đường bình thường là con đường đi từ cao xuống: trước hết là lòng tin tỉnh thức và bắt đầu bằng hiểu biết, nhận thức. Trong 3 nhân đức hướng thần, đức tin bắt đầu bừng tỉnh trước như một trực giác của Nguyên lý Tối Thượng, sự bừng tỉnh của lòng tin đánh thức lòng cậy: không phải lo sợ gì nữa khi nhận thức được rằng Nguyên lý Tối Thượng là nguồn mạch mọi sự trong tôi. Như thế cái đã bắt đầu trong ý thức tiếp tục diễn ra trong cảm xúc. Cuối cùng thì sự bừng tỉnh của lòng tin và lòng cậy đánh thức lòng mến: cái đã bắt đầu trong ý thức, đã đi vào cảm xúc, thì được thực hiện bằng hành động là sự sống, là bản năng sinh tồn của con người. Bao lâu con người sống trong mê muội thì mọi sự diễn ra hoàn toàn ngược chiều, bắt đầu từ bản năng sinh tồn, rồi đến cảm xúc, và đưa đến tin theo.
 
1. Bản năng sinh tồn muốn tự khẳng định mình như một cái tôi cá biệt khác với tha nhân và nhìn cái gì phù hợp với cái tôi là đồng minh, cái gì phương hại cho cái tôi là thù địch.
 
2. Việc khẳng định cái tôi đưa đến cảm xúc ước vọng thành công trong xã hội qua những việc làm bên ngoài, qua những hiện tượng. Sự bừng dậy của bản năng và của dục vọng đưa đến việc xác tín những giá trị phù hợp với dục vọng (tình, tiền, danh vọng…). Đó là những giá trị giả dối, những thần tượng hư ảo, do đó, niềm tin đó cũng là điều hư dối.
 
Với những khái niệm trên, ta hiểu rõ hơn ý nghĩa Lời Chúa dạy: Tôi phải nhỏ bé đi để Người lớn lên trong tôi. Kẻ thí mạng sống mình thì được sống muôn đời… (x Lc 17, 33…)
 
Những nghịch lý trong lời Chúa dạy không còn làm cho ta băn khoăn, lúng túng, khi ta hiểu rõ trong ta có hai hướng sống ngược chiều nhau, hướng tự nhiên và thông thường đi từ dưới lên, và hướng bình thường đi từ trên xuống. Hướng từ dưới lên là hướng của con người cũ, hướng từ trên xuống là hướng của con người mới được tái sinh, chớ không cần chui trở vào bụng mẹ để tái sinh như Nicôđêmô hiểu.
 
Sự sống của con người mới phát xuất từ Thượng Trí của Nguyên lý Tối Thượng hiện diện trong ta (đó là Chúa Thánh Thần; ta là đền thờ của Người). Không lệ thuộc vào cảm xúc và dục vọng, hoạt động của Thượng Trí dần dần khá đổ những niềm tin hư dối, những thần tượng mà con người cũ đã tự tạo. Đức tin cũng như con người mới lớn mạnh theo mức độ ta buông rơi những thần tượng hư dối đó.
 
Chính trong lãnh vực cảm xúc, ta thấy được sự đổi chiều kỳ thú của sự sống mới, ta hiểu rõ hơn xả trừ là gì. Cũng như ta đã sẵn có lòng tin, nhưng nó yên giấc, và nó bừng tỉnh theo mức độ những niềm tin hư dối bị phá đổ, ta cũng sẵn có đức cậy, nhưng nó cũng an giấc, và nó bừng tỉnh theo mức độ dục vọng ham muốn của ta được dẹp trừ đi. Mặt trời mọc trong cuộc sống mới đồng nghĩa với mặt trời lặn trong cuộc sống cũ, chiến thắng trong cuộc sống mới là chiến bại trong cuộc sống cũ.
 
Nếu tự quan sát mình, tôi thấy rằng tôi theo bản năng để không ngừng phấn đấu cho thành công ngoài xã hội, rằng những hoạt động của tôi hoặc là vị ngã (làm ra của cải để hưởng thụ, tìm danh vọng…) hoặc là vị tha (chấp nhận tha nhân, phấn đấu trở nên tốt hơn, dẹp trừ những tính xấu…), rằng tôi theo bản năng phấn đấu cho những hoạt động đó đạt kết quả, cho sự vươn lên của bản thân, của cái tôi. Do đó tôi không ngừng bị khuấy động và căng thẳng do những co thắt và sức ép mà khát vọng vươn lên tạo nên cho tôi, giống như loài chim không ngừng đập cánh để bay lên cao hoặc để chống lại luồng gió đi xuống. Tôi tự cư xử như những dục vọng của tôi là chính đáng, và coi việc thỏa mãn đó là niềm hạnh phúc chân thật và lâu bền cho đời tôi. Thế nhưng, điều chân thật thì hoàn toàn ngược lại, những dục vọng của tôi là điều hư dối, những cố gắng vươn lên lại là một cản trở vô thức cho việc đổi mới và thăng tiến mà Nguyên lý Tối Thượng luôn sẵn sàng thực hiện cho con người tôi. Niềm vui sâu xa và trọn vẹn chờ đợi tôi ở nơi mà tôi thấy là một đổ vỡ, một thảm bại cho những dục vọng của tôi. Thảm bại này không nhất thiết là một thảm bại bên ngoài, trong lãnh vực hiện tượng, mà nó hệ tại ở nhận thức, ở trực giác thấy được tính phi lý của con đường đi từ dưới lên của cuộc sống, thấy được tính hu dối của mọi dục vọng. Con người mà người ta thường gọi là tuyệt vọng, kỳ thực không phải là người mất hết hy vọng, họ vẫn đầy hy vọng là những dục vọng cũng như những tham vọng mà cuộc sống bên ngoài cản trở không cho thực hiện, do đó mà họ đau khổ. Con người dẹp trừ được dục vọng và tham vọng, nghĩa là không còn chờ mong gì ở thế giới hiện tượng và hình sắc, là con người tràn đầy niềm vui, một niềm vui tuyệt vời tràn vào tâm hồn họ mà không còn gặp một cản trở nào (niềm vui như hoa trái của Thánh Thần).
 
Trong thực hành, làm thế nào đi đến chỗ dẹp bỏ những dục vọng, những tham vọng phi lý của mình? Kỳ thực không phải là bắt tay vào việc tổ chức thế nào để mọi việc làm của mình đi đến thất bại. Không, không nên và không cần áp đặt một sự cưỡng bức áp chế nào cho bản thân mình. Chỉ cần có một điều cốt yếu là làm cho tâm trí tôi hoạt động một cách chủ động để nhận ra thực tại chân thật trong cuộc sống: vào những lúc cảm thấy khổ vì hoàn cảnh thực tế đi ngược chiều với những kỳ vọng của mình, hãy nhớ lại rằng những cái mà mình gọi là thành công trong quá khứ cũng chưa bao giờ bao lại sự mãn nguyện tuyệt đối mà mình mong muốn chung cục, những thỏa mãn đã kỳ thực chỉ làm cho mình thất vọng. Với kinh nghiệm bản thân về những cái gọi là thành công hư dối đó, bây giờ hãy suy nghĩ về những thành công mà mình mong đợi, hãy hình dụng việc thực hiện đó trong cụ thể, và điều ta cảm thấy được, chính là tính hư dối của nó. Chính những giây phút sống trong khắc khoải này là những giây phút thuận lợi cho việc dẹp bỏ những tham vọng, những ham muốn, vì lẽ lúc thần kinh căng thẳng mệt mỏi là lúc vừa cần vừa dễ xả trừ để đi đến thư giãn và an tĩnh. Nói thế không có nghĩa là ta phải thích đau khổ. Nhưng thích cho sự đau khổ đến với mình như một thách thức, một nhắc nhở, lại là điều khác, vì lẽ qua việc giúp mình dễ xả trừ những giây phút đau khổ, rõ ràng giúp cho ta đi đến an tĩnh là điều kiện cần thiết cho hoạt động của Nguyên lý Tối Thượng mang lại hiệu quả cho sự sống của ta.
 
Như thế, con đường đi đến giác ngộ, đi đến đời sống mới là đời sống đức tin, xuất hiện với cái tôi vị kỷ, tham vọng, như một con đường đi xuống. Thật vậy, theo một nghĩa nào đó, con đường đó đưa cái tôi vị kỷ đến một tình trạng ngày càng tồi tệ hơn, cho tới một lúc nào đó, cái tôi đó xuống tới tận đáy sâu, không còn xuống sâu hơn được nữa, đó là lúc con người tìm gặp được tất cả khi đã dẹp bỏ đi tất cả (như lúc cho đi là lúc lãnh nhận, lúc chết đi là lúc sống lại…).
 
Con đường đi đến đời sống mới, đời sống đức tin, cho đến đây, là con đường dẹp bỏ ngày một trọn vẹn hơn tất cả những gì được gọi là ham muốn, là dục vọng, là tham vọng ích kỷ. Đến đây ta cũng chỉ thấy được rằng con người thành đạt là con người từ tình trạng tự nhiên, thông thường, đi đến tình trạng hoàn toàn bình thường.(Như thế họ chỉ tìm gặp lại cái đã mất, đó là đời sống làm con Thiên Chúa, đời sống theo hình ảnh Thiên Chúa, đời sống giống như Thiên Chúa tại thế, đời sống đức tin, đời sống theo sự soi dẫn của Thần Khí Thiên Chúa…).

 

HY GB Phạm Minh Mẫn 

nguồn: Hubert Benoit, La doctrine suprême, 1967
 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây